Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất số 01/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TƯ NGHĨA, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 01/2022/DS-ST NGÀY 31/10/2022 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

Trong các ngày 25/10/2022 và ngày 31/10/2022, tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 39/2021/TLST-DS ngày 05 tháng 01 năm 2021, về việc: “Tranh chấp về thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2022/QĐXXST-DS ngày 29/8/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2022/QĐST - DS ngày 14/9/2022, Thông báo về việc chuyển lịch xét xử vụ án số 93/TB-TA ngày 27/9/2022 và Thông báo về việc chuyển lịch xét xử vụ án số 01/TB-TA ngày 14/10/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm 1962.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn H là bà Nguyễn Thị M sinh năm 1962 (theo văn bản ủy quyền ngày 12 tháng 08 năm 2021). Cùng địa chỉ: Xóm 3, thôn B, xã K, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị M, sinh năm 1940. Địa chỉ: Xóm 3, thôn B, xã K, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

Đại diện theo ủy quyền của bà Phạm Thị M là Phạm Thị Bình, sinh năm 1953, địa chỉ: thôn An Hòa Bắc, xã Nghĩa Thắng, huyện Tư nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi (theo văn bản ủy quyền ngày 17 tháng 5 năm 2021) và ông Đỗ Đức Cường, sinh năm: 1949, địa chỉ: Tổ 3, ấp Suối Quýt, xã Cẩm Đường, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (theo văn bản ủy quyền lập ngày 23 tháng 3 năm 2022) vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị N, sinh năm 1970. Địa chỉ: Xóm 2, thôn An Lạc, xã Nghĩa Thắng, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

2. Bà Lê Thị Nh, sinh năm 1973. Địa chỉ: Tổ 8, phường P, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

3. Bà Lê Thị Ph, sinh năm 1975. Địa chỉ: Xóm 1, thôn Xuân Phổ Tây, xã K, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

4. Bà Lê Thị L, sinh năm 1978. Địa chỉ: Xóm 6, thôn An Bình, xã K, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

5. Bà Lê Thị H, sinh năm 1979. Địa chỉ: Tổ 7, phường P, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

6. Ông Lê Văn H, sinh năm 1984, vắng mặt.

7. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962, có mặt.

8. Anh Lê L, sinh năm 1980, vắng mặt.

9. Anh Lê Thanh H, sinh năm 1985, vắng mặt.

10. Chị Lê Thị L, sinh năm 1990, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm 3, thôn B, xã K, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

11. Chị Lê Thị H, sinh năm 1988; Địa chỉ: Xóm T, thôn An Kỳ, xã K, TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

12. Chị Lê Thị P, sinh năm 1996. Địa chỉ: Đội 2, thôn T, xã P, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Đoàn Q, địa chỉ: xóm 3, thôn B, xã K, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 24/3/2020 (BL 25) và các đơn khởi kiện bổ sung (BL 32, 33, 37, 38, 49, 50, 53, 54, 55), bản tự khai ngày 15/01/2021 (BL 77), biên bản lấy lời khai (BL 75, 76, 84, 85, 88, 89), bản trình bày ngày 10/8/2022 (BL 87) và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Lê Văn H trình bày:

Cha, mẹ nguyên đơn là cụ Lê T (sinh năm 1910, chết năm 2007) và cụ Nguyễn Thị C (sinh năm 1911, chết năm 1983). Hai cụ có sáu người con, trong đó bốn người con mất lúc nhỏ. Hai cụ chỉ còn hai con chung là nguyên đơn Lê Văn H và anh trai Lê R (sinh năm 1947, chết năm 1985). Hai cụ không có con riêng, con nuôi, cha mẹ cụ T, cụ C chết trước hai cụ.

Cha mẹ nguyên đơn được thừa hưởng mảnh vườn có diện tích khoảng 5.131m2. Khi còn sống, cha mẹ nguyên đơn đã phân chia cho nguyên đơn và anh của nguyên đơn là ông Lê R, đã làm nhà ở ổn định từ đó đến nay. Năm 1983, cụ Nguyễn Thị C chết không để lại di chúc. Sau khi đã cho, phần diện tích còn lại cụ T, cụ C giữ lại để sử dụng là 1.195m2, thửa đất số 818, tờ bản đồ số 33, xã K, huyện Tư Nghĩa được UBND huyện Tư Nghĩa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng (sau đây gọi tắt là QSD) đất một mình tên cụ Lê T vào năm 2002 (nay là thửa đất số 1554, tờ bản đồ số 13 xã K, huyện Tư Nghĩa).

Năm 2007, cụ T chết, không để lại di chúc. Thửa đất số 818 là di sản của cụ T. Giới cận cụ thể như sau: phía Đông giáp thửa đất số 830 của bà Phạm Thị M; phía Tây giáp thửa đất số 1474 của ông Lê Văn H; phía Nam giáp tỉnh lộ 623B và phía Bắc giáp ruộng của ông Trần P. Trên thửa đất này hiện không còn nhà cửa hay công trình xây dựng trên đất mà chỉ có các cây cau, các loại rau ngắn ngày và cỏ voi do bà M trồng.

Do gia đình không tự thỏa thuận phân chia được nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết:

Chia di sản thừa kế theo pháp luật thửa đất số 818, tờ bản đồ số 33, xã K có diện tích tương ứng là 1.195m2 là di sản của ông Lê T (nếu xác định QSD đất này có phần của cụ C thì ông cũng đề nghị chia phần của cụ C) cho các đồng thừa kế là ông Lê Văn H và ông Lê R (ông R đã chết nên vợ và các con là bà Phạm Thị M, Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H và Lê Văn H) thành hai kỷ phần thừa kế. Mỗi kỷ phần chia tương ứng được nhận thừa kế với diện tích 1.195m2 : 2 = 597,5m2. Nguyên đơn yêu cầu được nhận toàn bộ di sản được chia bằng hiện vật là QSD đất diện tích là 597,5m2, có giới cận: phía Đông giáp phần đất còn lại của thửa đất 818, tờ bản đồ số 33, xã K; phía Tây giáp phần đất ông Lê Văn H; phía Nam giáp tỉnh lộ 623B và phía Bắc giáp ruộng của ông Trần P.

Đối với các tài sản trên đất nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật nếu phần đất nguyên đơn được chia thừa kế có các cây cau và hoa màu do bà M trồng nguyên đơn nhận và thối lại giá trị cho bà M.

Bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Tại luận cứ phản biện ngày 16/8/2021 (BL 104) và đơn trình bày ngày 30/5/2022 (BL 119) các ông, bà trình bày ý kiến cho rằng biên bản họp gia đình – gia tộc của cụ Lê T vào ngày 15/3/2000 là di chúc của cụ Lê T để lại, nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, trường hợp nguyên đơn có yêu cầu chia di sản thừa kế thì phía bị đơn chỉ đồng ý chia cho nguyên đơn diện tích 82,5m2 .

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phía bị đơn: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, nhưng bà Noa, bà Nhơn, bà Lai, bà Phụng, bà H, ông H không có văn bản trình bày ý kiến.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phía nguyên đơn: Bà M, anh H, anh Lại, chị P, chị Lan, chị H trình bày không có tranh chấp, không có yêu cầu Tòa án giải quyết sự việc tranh chấp chia di sản thừa kế. Bà M và các con chỉ liên quan trong vụ án này là do có tên trong sổ hộ khẩu của ông Lê T tại thời điểm Nhà nước cấp đất và xác định không có quyền lợi đối với thửa đất 818, tờ bản đồ số 33, xã K.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 73 Bộ luật tố tụng dân sự Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2015; Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959; Luật đất đai 2013, xác định QSD đất thửa đất số 818, tờ bản đồ số 33 (nay là thửa số 1554, tờ bản đồ số 13) xã K có diện tích 1.195m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 05501QSDĐ/1714/QĐ- UB(H) ngày 26/12/2002 do UBND huyện Tư Nghĩa cấp cho hộ ông Lê T là di sản của cụ Lê T và cụ Nguyễn Thị C. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc chia di sản thừa kế của ông Lê Văn H, chia di sản của cụ T và cụ C làm hai kỷ phần, ông H được thừa kế diện tích quyền sử dụng đất là 597,5m2; ông H phải thối lại giá trị tài sản, cây cối có trên phần đất được nhận cho bà M; bà M và các con được hưởng kỷ phần còn lại. Về chi phí tố tụng, án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế QSD đất tọa lạc tại huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án: “Tranh chấp thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

[1.2] Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; căn cứ Điều 227, 228, 229 Bộ luật tố tụng dân sự, giải quyết vụ án vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

[1.3] Cụ Nguyễn Thị C chết ngày 05/6/1983 (BL 17), cụ Lê T chết ngày 26/6/2007 (BL 15), theo Điều 623 BLDS năm 2015 thời hiệu khởi kiện là 30 năm được tính từ ngày 10/9/1990 đối với phần di sản của cụ C và đối với phần di sản của cụ T được tính từ ngày 26/6/2007. Ngày 24/3/2020, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện yêu cầu “Chia di sản của cha mẹ tạo lập để lại thửa đất 818, tờ bản đồ số 33, diện tích 1.195m2” là còn thời hiệu khởi kiện (BL 01, 25).

[2] Nội dung vụ án:

[2.1] Sinh thời, cụ Lê T và cụ Nguyễn Thị C được ông, bà lưu hạ mảnh vườn khoảng 5.131m2, các cụ làm nhà ở, quản lý, sử dụng. Trước năm 1975, trên thửa đất này, cụ T, cụ C phân chia cho ông Lê R với diện tích khoảng 2.200m2 là thửa số 830 về phía Đông vườn để làm nhà ở (năm 1985 ông Lê R chết), có vợ là bà Phạm Thị M và các con của ông R tiếp tục quản lý, sử dụng. Đến khoảng năm 1978, nguyên đơn (ông H) lập gia đình nhưng vẫn ở chung với cụ T, cụ C. Khoảng năm 1982, sau khi sinh con đầu, nguyên đơn được cụ T phân chia cho vợ cH nguyên đơn khoảng 1.736m2 (thửa 817, 815) phía Tây mảnh vườn để làm nhà ở riêng. Phần diện tích còn lại ở giữa vườn là 1.195m2 (thửa đất số 818) có nhà của cụ T, cụ C (hiện không còn), cụ T, cụ C tiếp tục quản lý sử dụng. Năm 1983, cụ C chết không để lại di chúc, năm 2007 cụ T chết, bà M quản lý, sử dụng.

[2.2] Theo văn bản số 02/VPĐKTN ngày 04/01/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Quảng Ngãi – Chi nhánh huyện Tư Nghĩa (BL 197) xác định: Các thửa đất 815, 817, 818 (thửa đang có tranh chấp về thừa kế), 830 cùng tờ bản đồ số 33 (năm 1993) xã K là thửa 157, tờ bản đồ số 08 (bản đồ 299) do ông Lê R, ông Lê T đứng tên trong sổ mục kê nhưng không tìm thấy kết quả thông tin đăng ký ruộng đất (sổ 5B) theo Chỉ thị số 299/CT-TTg. Việc ông R có tên trong sổ Mục kê ruộng đất là phù hợp với thực tế thời điểm ông được cụ T, cụ C chia đất để làm nhà ở phía Đông mảnh vườn.

[2.3] Từ sự phân chia đó, năm 2002, cụ Lê T đăng ký thửa số 818 (nay là thửa 1554) diện tích 1.195m2 (BL 173); bà Phạm Thị M (vợ ông R) đăng ký đối với thửa 830, diện tích 2.200m2 (BL 194), ông Lê Văn H đăng ký đối với thửa đất 815 và 817 diện tích tổng cộng 478m2 + 1.253m2 (BL 184) để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ba chủ thể trên (hộ Phạm Thị M, hộ ông Lê Văn H, hộ ông Lê T) và đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ba hộ.

[2.4] Tại văn bản số 2616/UBND ngày 06/10/2021 của UBND huyện Tư Nghĩa (BL 176), thể hiện: Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông Lê T thì UBND xã K không rõ hộ ông Thức có bao nhiêu nhân khẩu vì phương án giao đất theo Nghị định 64/CP bị thất lạc nhưng theo sổ hộ khẩu do Trưởng công an xã K ký ngày 15/12/2000 thì tại thời điểm năm 2000 hộ cụ Lê T có 08 nhân khẩu. Theo biên bản xác minh ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại Công an xã K, huyện Tư Nghĩa thể hiện: Cụ Lê T không chung sống cùng với gia đình ông Lê Văn H (con trai cụ) nhưng có tên trong cùng sổ hộ khẩu với gia đình ông H. Tại văn bản số 396/CAH-QLHC ngày 28/02/2022 của Công an huyện Tư Nghĩa (BL 200) thể hiện: Cụ Lê T không chung sống cùng hộ với bà Phạm Thị M (vợ ông R và các con ông R, bà M). Về tình tiết cụ T không chung sống với gia đình ông H nhưng có tên trong chung một sổ hộ khẩu phù hợp với lời trình bày của nguyên đơn và biên bản xác minh tại UBND xã K, huyện Tư Nghĩa (BL 156) là: Cụ T sống tại nhà của cụ, khi già yếu và trước khi chết cụ có về ở tại nhà bà M, tuy không sống chung với gia đình ông H nhưng có tên trong một sổ hộ khẩu. Đồng thời, tại văn bản trình bày của vợ, con ông Lê Văn H là bà Nguyễn Thị M, anh Lê Lại, anh Lê Thanh H, chị Lê Thị H, chị Lê Thị Lan, chị Lê Thị P: Các ông, bà không có tranh chấp về phần tài sản chung đối với thửa đất 818, tờ bản đồ số 33 và xác định QSD đất 1.195m2 ca thửa đất 818 là của cụ T (BL 301, 302, 304, 307, 310, 312). Như vậy thông tin trên Giấy chứng nhận QSD thửa đất số 818 (nay là thửa số 1554), tờ bản đồ số 33 (tờ bản đồ số 13), có diện tích 1.195m2 (loại đất vườn) cấp cho hộ ông Lê T là chỉ có cụ Lê T.

[2.5] Tuy nhiên, tài sản này có nguồn gốc là do ông, bà lưu hạ cho cụ T và cụ C. Việc cấp giấy chứng nhận QSD đất cho cụ T đối với thửa đất 818 không làm mất quyền của cụ C đối với tài sản này. Căn cứ vào Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 và quá trình quản lý, sử dụng xác định tài sản quyền sử dụng đất nguyên đơn yêu cầu chia là di sản của cụ T và cụ C. Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn dựa vào giấy chứng nhận QSD đất để khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ T và có trình bày chia tài sản cha mẹ tạo lập (BL 25, 32, 33), trong trường hợp tài sản này có liên quan đến cụ C thì đề nghị Tòa án chia di sản của cả cụ T và cụ C (BL 87).

[2.6] Việc nguyên đơn thay đổi phạm vi yêu cầu từ phần di sản của cụ T và cả di sản của cụ C nhưng không vượt quá phạm vi khởi kiện, yêu cầu. Bởi lẽ nguyên đơn yêu cầu chia phần di sản của cụ T hay của cụ C thì kỷ phần của nguyên đơn nếu được chia không thay đổi với yêu cầu chia di sản 1.195m2 (thửa đất số 818) ban đầu của cụ T. Yêu cầu ban đầu chia di sản là QSD đất đối với thửa đất 818 theo giấy chứng nhận QSD đất để tên cụ T là yêu cầu bao trùm, phù hợp với Điều 5, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.7] Đồng thời phải giải quyết tài sản trên thửa đất 818 (nay là thửa 1554): 48 cây cau đang cho quả (400.000 đồng một cây), 10 cây cau nhỏ khoảng ba năm tuổi (200.000 đồng một cây), phần đất đổ có khối lượng: 1,2m x 15,35m x 9,35m = 172,227 (m3), 02 cọc bê tông (100.000 đồng một cây), 01 cây xanh (có giá trị 100.000 đồng), 01 phần diện tích nhà cấp IV mặt bằng xây dựng 0.80m2 (đối với rau màu và cỏ voi tại thời điểm xét xử không còn).

[2.8] Theo lời trình bày của nguyên đơn và biên bản xác minh tại UBND xã K (BL 158), đủ cơ sở xác định: Hàng thừa kế của cụ T, cụ C gồm có ông Lê R và ông Lê Văn H. Ông Lê R chết năm 1985, chết sau cụ C, chết trước cụ T. Ông Lê R có vợ là bà Phạm Thị M (bị đơn), có con là chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H là những người thừa kế và thừa kế thế vị của ông Lê R nên được hưởng di sản của cụ T, cụ C theo quy định tại Điều 651, 652 Bộ luật dân sự.

[2.9] Đối với Biên bản họp gia đình, gia tộc do bà Lai, bà Bình người đại diện theo ủy quyền của bà M, nộp cho Tòa bản chụp (BL 125, 126) và tại văn bản luận cứ phản biện ngày 16/8/2021, đơn trình bày ngày 30/5/2022, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và bị đơn trình bày: Trong biên bản họp gia đình, gia tộc ngày 15/03/2000, cụ Lê T cho ông Lê Văn H diện tích 1.766m2 (ở phía Tây); cho bà Phạm Thị M 2.200m2 (ở phía đông), phần còn lại là 1.165m2, cụ T sử dụng 1.000m2 cho con dâu trưởng làm ăn, diện tích còn lại là 165m2 chia đều cho hai chị em (Mến, Hải), biên bản trên có sự chứng kiến của hai bên gia đình và xác nhận của xóm trưởng và theo di nguyện của cụ Lê T giao cho con dâu trưởng bà M 1000m2 để làm ăn lo cho cụ ngày ốm và sau này khi cụ qua đời lo hương khói cho ông bà là di sản vào việc thờ cúng thì phần di sản 1000 m2 không được chia. Và biên bản họp gia đình, gia tộc do nguyên đơn giao nộp cho Tòa bản chính (BL 91, 92). Theo nguyên đơn trình bày: Nội dung trong văn bản này là do bà Lê Thị N tự viết và ký, ghi tên ông Lê T, ký và ghi tên bà Phạm Thị M, thực tế ông Thức và bà M không ký. Bản nguyên đơn giao nộp cho Tòa án không có xác nhận của ông Đoàn Q xóm trưởng vào ngày 03/12/2000.

[2.10]. Theo biên bản xác minh đối với ông Đoàn Q (BL 336) thể hiện: Trong Biên bản họp gia tộc có chữ ký của ông là đúng, do bà M đem đến nhà ông nhờ ký, ông chỉ xác nhận là ông biết ông Lê T có mảnh vườn như trong biên bản, còn đối với những chữ ký còn lại ông không biết là của ai vì ông không chứng kiến. Đối với chữ ký của ông Lê Thanh T, ông Nguyễn B, qua kết quả xác minh của Tòa án ông B đã chết, ông Toàn không còn minh mẫn (BL 337). Mặt khác, do bị đơn không hợp tác với Tòa án nên không thực hiện các biện pháp để xác thực tính hợp pháp cũng như hiệu lực của biên bản họp gia đình, gia tộc ngày 15/03/2000 nên lời trình bày của bà M và người đại diện theo ủy quyền tại luận cứ phản biện là không có cơ sở chấp nhận.

[2.11] Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và ban hành các Thông báo số 278/TB-TA ngày 26/6/2021 (BL 98) Thông báo số 450/TB-TA ngày 28/12/2021 (BL 114), Thông báo số 322/TB-TA ngày 11/7/2022 (BL 345), Thông báo số 382/TB-TA ngày 10/8/2022 (BL 363) để thông báo, phổ biến, giải thích cho bị đơn và người liên quan biết thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, biết để yêu cầu về tính công sức, đóng góp, nuôi dưỡng với di sản và người để lại di sản nhưng bị đơn và người liên quan phía bị đơn không hợp tác, không thực hiện nên không có căn cứ, cơ sở để xác định phần tính công sức đóng góp khi chia thừa kế. Mặt khác, tình huống trong vụ án này không tương tự với tình huống pháp lý trong Án lệ nên không được áp dụng để tính công sức đóng góp đối với di sản.

[2.12] Từ nhận định trên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H, chia cho ông H một kỷ phần thừa kế là QSD đất có diện tích 597,5m2, có giới cận: phía Đông giáp phần đất còn lại của thửa đất 818, tờ bản đồ số 33 (nay là thửa 1554, tờ bản đố số 13) xã K; phía Tây giáp phần đất ông Lê Văn H; phía Nam giáp tỉnh lộ 623B và phía Bắc giáp ruộng của ông Trần P; (có sơ đồ phân chia kèm theo thửa đất) có trị giá là: 25.095.000 (Hai mươi lăm triệu không trăm chín mươi lăm nghìn) đồng. Giao cho ông H: 37 cây cau đang cho quả (400.000 đồng một cây), trị giá 14.800.000 (Mười bốn triệu tám trăm nghìn) đồng; phần đất đổ có khối lượng 42,21m3, có giá trị theo định giá là 25.000đồng/m3, nhưng ông H đề nghị được bồi hoàn là 150.000 đồng/m3 nên ghi nhận sự tự nguyện của ông H bồi thường là 6.331.500 đồng, 02 cọc bê tông trị giá 200.000 đồng được quyền quản lý, sử dụng. Ông H thối lại giá trị các tài sản trên đất (14.800.000 + 6.331.500 + 200.000) = 21.331.500 (Hai mươi mốt triệu ba trăm ba mươi mốt nghìn năm trăm) đồng cho bà M, bà Noa, bà Nhơn, bà H, bà Lai, bà Phụng và ông H.

[2.13] Đối với phần diện tích 597,5m2, có giới cận: phía Đông giáp thửa đất 830, tờ bản đồ số 33, xã K; phía Tây giáp phần đất còn lại của thửa 818; phía Nam giáp tỉnh lộ 623B và phía Bắc giáp ruộng của ông Trần P; (có sơ đồ phân chia kèm theo thửa đất) là phần di sản ông Lê R được hưởng. Do ông Lê R đã chết nên vợ bà Phạm Thị M và các con là chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H được hưởng. Trên phần đất này có 11 cây cau đang cho quả (400.000 đồng một cây), 10 cây cau nhỏ khoảng ba năm tuổi (200.000 đồng một cây), phần đất đổ có khối lượng: 130.017(m3), 01 cây xanh (có giá trị 100.000 đồng), 01 phần diện tích nhà cấp IV mặt bằng xây dựng 0.80m2 tạm giao quyền sử dụng đất này và tài sản trên đất cho bà M, chị Noa, chị Nhơn, chị Phụng, chị Lai, chị H và anh H quản lý sử dụng.

[3] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 2.000.000 đồng; chi phí đo vẽ 5.000.000 đồng; chi phí định giá tài sản: 7.500.000 đồng, tổng cộng:

14.500.000 đồng (BL 129, 133, 134, 212, 242), nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ phù hợp với quy định tại Điều 158; Điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự nên được ghi nhận. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng và chi phí xong.

[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn là người cao tuổi, có đơn yêu cầu miễn án phí nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, ông Lê Văn H được miễn nộp án phí. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án cho ông H đã nộp tiền tạm ứng án phí.

Đối với bà Phạm Thị M, chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H là người thừa kế và thừa kế thế vị của ông Lê R nên được hưởng di sản của cụ T, cụ C. Theo khoản 7, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội các ông, bà phải chịu án phí đối với phần di sản được hưởng là 1.254.750 (Một triệu hai trăm năm mươi bốn nghìn bảy trăm năm mươi) đồng.

[5] Ý kiến, đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điều 5, khoản 3, 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39, 147, 157, 158, 166, 227, 228, 229, 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng Điều 213, Điều 611, 612, 616, 623, 649, 651, 652, 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 179 Luật đất đai 2013, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Xác định quyền sử dụng đất thửa đất số 818, tờ bản đồ số 33 (nay là thửa số 1554, tờ bản đồ số 13) xã K có diện tích 1.195m2 (loại đất vườn) theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số:

05501QSDĐ/1714/QĐ-UB(H) ngày 26/12/2002 do UBND huyện Tư Nghĩa cấp cho hộ ông Lê T là di sản của cụ Lê T và cụ Nguyễn Thị C.

2. Ghi nhận ý kiến của ông Lê Văn H, xác định tài sản trên đất 48 cây cau đang cho quả (400.000 đồng một cây), 10 cây cau nhỏ khoảng ba năm tuổi (200.000 đồng một cây), phần đất đổ có khối lượng: 1,2m x 15,35m x 9,35m = 172,227 (m3), 02 cọc bê tông (100.000 đồng một cây), 01 cây xanh (có giá trị 100.000 đồng), 01 phần diện tích nhà cấp IV mặt bằng xây dựng 0.80m2 là của bà Phạm Thị M, chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H.

3. Xác định người được hưởng di sản: ông Lê Văn H và bà Phạm Thị M, chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H.

4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc chia di sản thừa kế của ông Lê Văn H.

- Chia cho ông H diện tích quyền sử dụng đất là 597,5m2, có giới cận: phía Đông giáp phần đất còn lại của thửa đất 818, tờ bản đồ số 33, (nay là thửa số 1554, tờ bản đồ số 13) xã K; phía Tây giáp phần đất ông Lê Văn H; phía Nam giáp tỉnh lộ 623B và phía Bắc giáp ruộng của ông Trần P; được xác định bởi các điểm 1-2-3-4- 4A-6A-1 theo sơ đồ bản vẽ kèm theo, có giá trị là 25.095.000 (Hai mươi lăm triệu không trăm chín mươi lăm nghìn) đồng.

- Giao cho ông Lê Văn H được quyền quản lý, sử dụng: 37 cây cau đang cho quả, phần đất đổ có khối lượng 42,21 m3 (có ký hiệu 6A-A-A1-A2-A theo sơ đồ bản vẽ), 02 cọc bê tông. Các tài sản này nằm trên phần diện tích đất ông H được chia.

- Ông H thối lại giá trị các tài sản trên đất là 21.331.500 (Hai mươi mốt triệu ba trăm ba mươi mốt nghìn năm trăm) đồng cho bà Phạm Thị M, chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H.

5. Tạm giao kỷ phần thừa kế cho bà Phạm Thị M, chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H quản lý sử dụng quyền sử dụng đất được hưởng (diện tích 597,5m2, có giới cận: phía Đông giáp thửa đất 830, tờ bản đồ số 33, xã K; phía Tây giáp phần đất còn lại của thửa 818; phía Nam giáp tỉnh lộ 623B và phía Bắc giáp ruộng của ông Trần P;) được xác định bởi các điểm 4A- 5-6-6A-4A theo sơ đồ bản vẽ kèm theo và tài sản trên đất là có 11 cây cau đang cho quả, 10 cây cau nhỏ, phần đất đổ có khối lượng: 130,017m3, 01 cây xanh, 01 phần diện tích nhà cấp IV mặt bằng xây dựng 0.80m2.

6. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, các bên đương sự có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước cấp có thẩm quyền đăng ký để điều chỉnh lại quyền sử dụng đất theo quyết định của Tòa án.

7. Án phí và chi phí tố tụng:

- Ông Lê Văn H được miễn án phí.

- Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án cho ông H đã nộp tạm ứng số tiền tạm ứng án phí 23.925.000 (Hai mươi ba triệu chính trăm hai mươi lăm nghìn) đồng theo biên lai thu số AA/2018/0005696 ngày 05 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tư Nghĩa.

- Ghi nhận sự tự nguyện chịu chi phí tố tụng của ông Lê Văn H, ông H đã thực hiện xong.

- Bà Phạm Thị M, chị Lê Thị N, Lê Thị Nh, Lê Thị Ph, Lê Thị L, Lê Thị H, anh Lê Văn H phải chịu số tiền án phí 1.254.750 (Một triệu hai trăm năm mươi bốn nghìn bảy trăm năm mươi) đồng.

8. Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền phải thi hành thì người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền chưa thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

9. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

10. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất số 01/2022/DS-ST

Số hiệu:01/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về