Bản án về tranh chấp thừa kế số 415/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 415/2023/DS-PT NGÀY 25/08/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ

Ngày 25/8/2023 tại trụ sở TAND Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 143/2023/DSPT ngày 13/4/2023 về “Tranh chấp thừa kế”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 15/02/2023 của TAND thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 315/2023/QĐXX-PT ngày 05/7/2023 và Thông báo mở lại phiên tòa của TAND Thành phố Hà Nội, giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nho, sinh năm 1947. Địa chỉ: Số 89 Lê Lợi, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Chu Thị Bình, sinh năm 1956. Địa chỉ: Tổ dân phố 3, Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Nguyễn Thị Hoàn, sinh năm 1954. Địa chỉ: Tổ dân phố 3, Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt;

3.2. Người thừa kế ông Nguyễn Đăng Phong, đã chết năm 2017;

3.2.1. Bà Chu Thị Bình, sinh năm 1956 (Vợ ông Phong). Có mặt;

3.2.2. Anh Nguyễn Thế Anh, sinh năm 1975 (con ông Phong, bà Bình). Có mặt;

3.2.3.Anh Nguyễn Hải Nam, sinh năm 1979 (con ông Phong, bà Bình). Có mặt; Cùng địa chỉ: Địa chỉ: Tổ dân phố 3, Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.

3.2.4. Chị Nguyễn Thị Mai Phương, sinh năm 1977 (con ông, Phong, bà Bình).

Địa chỉ: Số 92, phố Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt.

3.3. Người thừa kế ông Nguyễn Đăng Kim, đã chết năm 2019:

3.3.1. Bà Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1960 (vợ ông Kim);

3.3.2. Anh Nguyễn Đăng Kiên, sinh năm 1983 (con ông Kim, bà Hoa);

3.3.3. Anh Nguyễn Tùng Lâm, sinh năm 1992 (con ông Kim, bà Hoa);

Cùng địa chỉ: Tổ dân phố 3, Tiền Huân, phường Viên Sơn, Sơn Tây, Hà Nội.

3.3.4. Chị Nguyễn Thị Hiên, sinh năm 1986 (con ông Kim, bà Hoa). Địa chỉ: Số 14/112 Tiền Huân, phường Viên Sơn thị xã Sơn Tây, Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của các anh chị: Kiên, Lâm, Hiên là bà Nguyễn Thị Hoa. Có mặt bà Hoa; Vắng mặt các anh chị: Kiên, Lâm, Hiên.

3.4. Người thừa kế ông Nguyễn Đăng Thư, đã chết năm 2016;

3.4.1. Bà Nguyễn Thị Nga, sinh năm 1955 (vợ ông Thư). Địa chỉ: Số 18/74 Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt;

3.4.2. Anh Nguyễn Duy Thái, sinh năm 1979 (con ông Thư, bà Nga). Địa chỉ:

phố Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.

3.4.3. Chị Nguyễn Thị Thu Hằng, sinh năm 1981(con ông Thư, bà Nga). Địa chỉ: Số 14 đường Phú Thịnh, phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, Hà Nội;

3.4.5. Chị Nguyễn Thị Vân Anh, sinh năm 1983 (con ông Thư, bà Nga). Địa chỉ: Số 15, ngõ 16 Huỳnh Thúc Kháng, Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội;

Người đại diện theo ủy quyền của các anh chị: Thái, Hằng, Vân Anh là bà Nguyễn Thị Nga. Có mặt bà Nga; Vắng mặt các anh chị: Thái, Hằng, Vân Anh .

3.5. Bà Nguyễn Thị Lan, sinh năm 1957. Địa chỉ: Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Đại diện theo ủy quyền của bà Lan là bà Nguyễn Thị Hoàn. Có mặt bà Hoàn;

3.6. Bà Nguyễn Thị Huệ, sinh năm 1961. Địa chỉ: Số 01/49 Phù Sa, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt;

3.7. Bà Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1964. Địa chỉ: 1/09/104B Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt;

3.8. Bà Nguyễn Thị Hà, sinh năm 1967. Địa chỉ: 379 La Thành, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Có mặt;

4. Người kháng cáo: Bà Chu Thị Bình là bị đơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo hồ sơ vụ án sơ thẩm. Tại cấp sơ thẩm:

1. Nguyên đơn bà -Nguyễn Thị Nho trình bày:

Bố ba là cụ Nguyễn Đăng Hiển, chết năm 2009 không để lại di chúc. Bố mẹ cụ Hiển đã chết trước cụ. Cụ Hiển có 02 người vợ gồm:

* Cụ Nguyễn Thị Diêm, chết năm 1968. Cụ Hiển và cụ Diêm có 04 người con chung là: Ba Nguyễn Thị Nho; Ông Nguyễn Đăng Phong (chết năm 2017, có vợ là bà Chu Thị Bình; ông Phong và bà Bình có 03 con chung là Thế Anh, Hải Nam, Mai Phương); Ông Nguyễn Đăng Kim (chết năm 2019, có vợ là bà Nguyễn Thị Hoa; ông Kim bà Hoa có 03 con chung là: Kiên, Lâm, Hiên); Bà Nguyễn Thị Hoàn.

* Cụ Khuất Thị Hột, chết năm 2011. Cụ Hiển và cụ Hột có 05 người con chung gồm: Ông Nguyễn Đăng Thư (chết năm 2016, có vợ là bà Nguyễn Thị Nga. Ông Thư và bà Nga có 03 người con chung là: Duy Thái, Thu Hằng và chị Vân Anh); Bà Nguyễn Thị Lan; Bà Nguyễn Thị Huệ; Bà Nguyễn Thị Ngọc; Bà Nguyễn Thị Hà.

Di sản cụ Hiên để lại là Quyền sử dụng thửa đất số 113, tờ bản đồ 11, diện tích 252 m2 (Sau đây viết tắt là thửa đất số 113) tại: Thôn Tiền Huân, xã Viên Sơn, Sơn Tây, Hà Nội. Theo Giấy chưng nhân quyền sư dung đất số T 481717 (Sau đây viết tắt là GCNQSDĐ số T 481717) do UBND thi ̣xa Sơn Tây cấp ngay 06/07/2004 đứng tên cụ Hiển. Nguồn gốc thưa đất này là do cụ Hiên mua khoang 1.200 m2 của cụ Liên. Cụ Hiên đã chia cho ông Kim, ông Phong mỗi người môt phần thưa đất (các ông đều đa được cấp GCNQSDĐ), phần con lai là thửa đất số 113 là của cụ Hiên.

Ba Nho đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế của cụ Hiển là Quyền sử dụng là thửa đất số 113, GCNQSDĐ số T 481717 và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật.

2. Bị đơn là bà Chu Thi ̣Binh trình bày:

Thừa nhận quan hệ huyết thống đúng như nguyên đơn trình bày:

Theo bị đơn: Cụ Hiên để lại thửa đất số 113; diên tich 252 m2, đưng tên cụ Hiên tại GCNQSDĐ số T 481717. Nguồn gốc thưa đất số 113 là: Năm 1972, cụ Hiên mua thửa đất diên tich khoảng 907m2 cua cu Nguyễn Xuân Liên, vơi gia 550.000 đồng. Cụ Hiên đa tra cho cu Liên 280.000 đồng, số tiền con lai vơ chồng ba tra tiếp. Khi mua đất cua cu Liên co 01 nha cấp IV va 01 gian bếp. Sau đo, vơ chồng ba lam lai ngôi nha như hiên nay. Khi chết cụ Hiên co lâp di chuc co sư chưng kiến cua UBND xa Viên Sơn, đai diên chi tôc cung cac con. Nôi dung di chuc:

Phần 1: Để lại phần nhà kiên cố khoảng 40m2 và phần đất chiếu theo nhà để làm nơi thờ cúng. Phần 2,3 chia cho 02 người con trai là ông Kim và ông Phong.

Ba Binh không nhất trí chia thừa kế thửa đất số 113 theo pháp luật mà đề nghị thực hiện theo nôi dung di chuc đê thưa đất số 113 lam nơi thơ cung cac cu, dong tôc.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Các anh, chị: Thế Anh; Hải Nam, Mai Phương trình bày:

Các anh chị là con của ông Phong và bà Bình. Năm 2009, vợ chồng anh Thế Anh có sửa chữa lại ngôi nhà trên thửa đất số 113. Hiện tại gia đình anh Thế Anh đang sinh sống trên thửa đất này. Nay các anh chị đề nghị để lại thửa đất 113 làm nơi thờ cúng và giao cho bà Bình quản lý.

3.2. Bà Hoàn, bà Hoa, anh Kiên, anh Lâm, chị Hiền, bà Nga, anh Thái, chị Hằng, chị Vân Anh, bà Lan, bà Huệ, bà Ngọc, bà Hà trình bày:

Cùng đề nghị phần di sản mà họ được hưởng để cho bà Nho 100 m2 trong thửa đất 113 (04 m mặt tiền), còn lại để làm nơi thờ cúng và giao cho bà Bình quản lý theo biên bản hòa giải ngày 20/07/2022.

Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá ngày 16/8/2022. Xác định Toan bô quyền sư dung thưa đất số 113 diên tich 252 m2 trị giá thành tiền là (252m2 x 4.827.000 đồng/m2) = 1.216.404.000 đồng - Cac tai san trên đất gồm: Nha 04 gian môt tầng (54,3 m2 x3.466.000 đ/m2)x 40% = 75.281.520 đồng; sân lat gach đo (92,8m2 x 207.000 đông/m2)x 40%= 7.683.840 đồng là tài sản của gia đình bà Bình phát triển.

Ngoài ra còn 01 cây nhang môt số cây cối, gian hoa co gia tri ̣ không lơn cac đương sư không yêu cầu điṇ h xem xet, điṇ h gia;

Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 15/2/2023, TAND thị xã Sơn Tây quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Nho về việc chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Đăng Hiển.

1. Xác định di sản thừa kế ông Nguyễn Đăng Hiển gồm có Quyền sử dụng thửa đất số 113, tờ bản đồ 11, diện tích 252 m2; tại: Thôn Tiền Huân, xã Viên Sơn, Sơn Tây, Hà Nội. Theo Giấy chưng nhân quyền sư dung đất số T 481717, số vao sô cấp giấy chưng nhân 01112/QSDĐ/VS do UBND thi ̣ xa Sơn Tây cấp ngay 06/07/2004 đứng tên ông Nguyễn Đăng Hiển và tài sản gắn liền với đất.

2. Giao cho bà Chu Thị Bình và các con Anh Nguyễn Thế Anh và Anh Nguyễn Hải Nam và Chị Nguyễn Thị Mai Phươngđược quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 113-1, tờ bản đồ số 11, diện tích 151.3 m2 trong có một phần làm nơi thờ cúng. Cụ thể: các điểm từ mốc 1 đến mốc 2 là 28,98m; từ mốc 2 đến mốc 2a là 4,72 m; từ mốc 2a đến mốc 7a là 22,89m; từ mốc 7a đến mốc 7 là 0,16 m; từ mốc 7 đến mốc 8 là 6,82m;từ mốc 8 đến mốc 1 là 5,51 m. Trên đất có nhà,diện tích là 31,6m2.( Có bản vẽ sơ đồ kèm theo ) 3. Giao cho cho bà Nguyễn Thị Nho được quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 113-2, tờ bản đồ số 11, diện tích 100.7 m2.Cụ thể: các điểm từ mốc 2a đến mốc 3 là 4,00 m; từ mốc 3 đến mốc 4 là 12,55 m; từ mốc 4 đến mốc 5 là 10,07m; từ mốc 5 đến mốc 6 là 0,48 m; từ mốc 6 đến mốc 7 là 3,84m; từ mốc 7a đến mốc 2a là 22,89 m. Trên đất có nhà, diện tích là 25,5m2( Có bản vẽ sơ đồ kèm theo ).

Bà Chu Thị Bình và bà Nho căn cứ phần đất của mình được chia. Sau khi án có hiệu lực pháp luật có nghĩa vụ đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký biến động quyền sử đụng đất theo quy định tại khoản 4 Điều 95 Luật đất đai 2013.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí; quyền yêu cầu thi hành án, thỏa thuận thi hành án; quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm.

Bà Chu Thị Bình là bị đơn, kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.

Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, theo yêu cầu của các đương sự: Ngày 03/8/2023, Tòa cấp phúc thẩm tiến hành xem xét thẩm định lại khối di sản đang tranh chấp. Kết quả: Thưa đất số 113 diên tich đo thưc tế 249,3 m2(249,3m2 x 4.827.000 đồng/m2) = 1.203.371.100 đồng. Các tài sản trên đất vẫn giữ nguyên như cấp sơ thẩm đã xem xét thẩm định, định giá ngày 16/8/2022.

Tại biên bản là việc ngày 03/8/2023. Bà Ngọc, bà Nga, bà Lan trình bày nếu kỷ phần họ được hưởng thừa kế thì bà tặng cho bà Bình.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn, người kháng cáo- Bà Bình trình bày: Bà xác định thửa đất 113 do cụ Hiển để lại phải thực hiện theo “Bản di chúc thừa kế tài sản” lập ngày 07/7/1999 để làm nơi thờ cúng tổ tiên, không nhất trí phân chia theo yêu cầu của bà Nho. Trường hợp phải phân chia thì cần phải xác định công sức của gia đình bà hợp lý. Vì: Khị cụ Hiển mua của cụ Liêm, cụ Hiển mới trả 280.000 đồng còn 270.000 đồng thì vợ chồng bà trả nốt. Trên thửa đất tranh chấp có ngôi nhà mái bằng diện tích 44 m2 là của vợ chồng bà xây dựng năm 1986. Năm 2009 sửa lại, tôn nền nhà, nền sân trước nhà, trát lại tường nhà lát nền nhà, lát sân gạch đỏ. Tòa sơ thẩm không xem xét đến tài sản của vợ chồng bà làm trên đất, không xem xét công sức duy trì, tôn tạo đất và chia đất cho bà Nho vào nhà của gia đình bà đã xây dựng. Đề nghị chia cho bà Nho vào phần đất trống hoặc đổi cho bà Nho phần đất mà cụ Hiển đã cho ông Phong. Những người đã cho bà kỷ phần mà họ được hưởng thì bà xin nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đảm bảo quyền lợi cho bà.

Nguyên đơn - Bà Nho trình bày: Bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng pháp luật, bà không kháng cáo. Bà giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà Nho giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nga trình bày: Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm. Kỷ phần mà ông Thư được hưởng thừa kế do bà và các con được hưởng thừa kế chuyển tiếp cùng thống nhất cho bà Bình được hưởng.

Bà Ngọc, bà Huệ trình bày: Các bà giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm. Kỷ phần mà các bà được hưởng thừa kế, các bà cho bà Bình được hưởng.

Bà Hoàn trình bày: Bà giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm. Kỷ phần mà bà được hưởng thừa kế, bà cho bà Nho được hưởng. Bổ sung thêm “Bản di chúc thừa kế tài sản” lập ngày 07/7/1999 mà bà Bình xuất trình không phải là di chúc mà chỉ là bản họp gia đình. Nhưng kể từ khi lập năm 1999 cho đến năm 2003- 2004 cụ Hiển đã phân chia cho ông Phong thửa đất số 112; ông Kim thửa đất số 111; cụ Hiển giữ lại thửa đất số 113 cho đến khi cụ chết cụ không thay đổi.

Với tư cách là đại diện theo ủy quyền của bà Lan, bà Hoàn xác định bà Lan giữ nguyên ý kiến như biên bản là việc ngày 03/8/2023.

Bà Hoa, bà Hà trình bày: Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm. Kỷ phần mà ông Kim được hưởng thừa kế do bà Hoa và các con được hưởng thừa kế chuyển tiếp cùng thống nhất cho bà Bình, bà Nho mỗi người được hưởng 1/2. Kỷ phần bà Hà đươc hưởng thừa kế từ cụ Hiển bà tặng cho bà Bình, bà Nho mỗi người được hưởng 1/2.

Anh Anh, anh Nam và chị Phương thống nhất trình bày: Các anh, chị cùng bà Bình là người thừa kế chuyển tiếp của ông Phong; cùng nhất trí với các ý kiến trình bày của bà Bình thỏa thuận nếu kỷ phần của ông Phong được hưởng; phần công sức gia đình bà Bình thì giao cho bà Bình được hưởng quản lý sử dụng cho đến khi các anh chị tự thỏa thuận phân chia hoặc khởi kiện phân chia bằng vụ kiện khác. Anh Thế Anh trình bày bổ sung: Mặc dù anh không có tài liệu, chứng cứ bằng văn bản nhưng anh khẳng định khi cụ Hiển mua đất của cụ Liên còn thiếu tiền, sau đó bố mẹ anh (ông Phong, bà Bình) phải trả nợ tiếp. Anh có công trong việc xây dựng, sửa chữa nhà, xây dựng các công trình trên đất nhưng anh đồng ý giao cho mẹ anh (bà Bình) được hưởng.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa không gửi văn bản trình bày quan điểm, ý kiến với Hội đồng xét xử.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về cách giải quyết vụ án.

* Kiểm sát viênVKSND Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm: Về tố tụng:

- Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tiến hành phiên tòa đúng quy định.

- Người kháng cáo thực hiện việc kháng cáo trong thời hạn luật định.

- Một số đương sự không kháng cáo vắng mặt nhưng đã có người đại diện theo ủy quyền của họ có mặt. Đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt họ.

Về Nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà Bình. Sửa bản án sơ thẩm xác định và thanh toán công sức và phần tài sản phát triển trên đất của gia đình bà Bình Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về Tố tụng:

- Cấp sơ thẩm thụ lý giải, quyết vụ án đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Người kháng cáo thực hiện việc kháng cáo trong thời hạn luật định.

- Một số đương sự không kháng cáo, vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có người đại diện theo ủy quyền của họ có mặt.

[2]. Về nội dung:

2.1. Những nội dung mà cấp sơ thẩm đã xác định đúng, các bên đương sự cùng thống nhất không phải chứng minh và không kháng cáo:

- Cụ Hiển chết năm 2009. Bố mẹ cụ Hiển đều đã chết trước cụ Hiển. Cụ Hiển có 02 người vợ, vợ cả là cụ Nguyễn Thị Diêm (chết năm 1968),vợ hai là cụ Khuất Thị Hột (chết năm 2011). Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hiển gồm:

- Ba Nguyễn Thị Nho;

- Bà Nguyễn Thị Hoàn;

- Ông Nguyễn Đăng Phong (chết năm2017) do bà Chu Thị Bình (vợ ông Phong) và các con là: Anh Nguyễn Thế Anh, anh Nguyễn Hải Nam và chị Nguyễn Thị Mai Phương là người thừa kế chuyển tiếp; cùng thỏa thuận nếu kỷ phần của ông Phong được hưởng thì giao cho bà Bình đại diện quản lý;

- Ông Nguyễn Đăng Kim (chết năm 2019) do bà Nguyễn Thị Hoa (vợ ông Kim) và các con là: Anh Nguyễn Đăng Kiên, anh Nguyễn Tùng Lâm và chị Nguyễn Thị Hiền là người thừa kế chuyển tiếp; cùng thỏa thuận nếu kỷ phần của ông Kim được hưởng thì giao cho bà Hoa đại diện quyết định toàn bộ;

- Ông Nguyễn Đăng Thư (chết năm 2016) do bà Nguyễn Thị Nga (vợ ông Thư) và các con gồm: Anh Nguyễn Duy Thái, chị Nguyễn Thị Thu Hằng và chị Nguyễn Thị Vân Anh là người thừa kế chuyển tiếp; cùng thỏa thuận nếu kỷ phần của ông Thư được hưởng thì giao cho bà Hoa đại diện quyết định toàn bộ;

-Bà Nguyễn Thị Lan, - Bà Nguyễn Thị Huệ, - Bà Nguyễn Thị Ngọc;

- Bà Nguyễn Thị Hà.

Cụ Diêm chết trước cụ Hiển và khối tài sản hình thành sau khi cụ Diêm đã chết nên cụ Diêm không phải là người thừa kế của cụ Hiển. Cụ Hột có quan hệ như vợ chồng với cụ Hiển tại thời điểm cụ Hiển đang có vợ hợp pháp là cụ Diêm đang còn sống, nên cụ Hiển và cụ Hột không phải là vợ chồng hợp pháp; cụ Hột không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hiển.

Nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp là do: Năm 1972 cụ Hiển nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Xuân Liêm khoảng 1263 m2 đất với giá 550.000 đồng. Cụ Hiên đã tách và chia thành 03 thửa ( các thửa 111; 112; 113 cùng tờ bản đồ số 11, thôn Tiền Huân, xã Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Cụ Hiển đã chia cho ông Phong thửa đất số 112; chia cho ông Kim thửa đất số 111. Ông Phong và ông Kim đều đã xây dựng nhà ở, quản lý sử dụng ổn định từ khi được chia đến nay và được UBND thị xã Sơn Tây cấp GCNQSDĐ không phát sinh tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Các đương sự đều xác định: Không tranh chấp và không đề nghị xem xét đối với hai thửa đất này.

2.2.Xét yêu cầu kháng cáocủa bà Bình. Hội đồng xét xử thấy:

Sau khi phân chia cho ông Phong thửa đất số 112 ;ông Kim thửa đất số 111. Cụ Hiển giữ lại thửa đất số 113, diện tích cho riêng cụ và ngay 06/07/2004 cụ đã được UBND thi ̣xa Sơn Tây cấp GCNQSD Đ số T481717. Cac đương sư đều thưa nhận kể từ cu Hiên được cấp GCNQSD Đ số T481717 đối với thửa đất số 113, không phát sinh tranh chấp. Mặc dù bà Bình xác định thửa đất 113 do cụ Hiển để lại chính là diện tích ngôi nhà cổ 40 m2 và đất mà cụ Hiển giữ lại theo “Bản di chúc thừa kế tài sản” lập ngày 07/7/1999 để làm nơi thờ cúng tổ tiên, không nhất trí phân chia. Xét thấy: “Bản di chúc thừa kế tài sản” lập ngày 07/7/1999 do bà Bình xuất trình là bản phô tô, không có công chứng, chứng thực, bà thừa nhận không có bản chính để giao nộp. Do đó cấp sơ thẩm xác định tài liệu này không có căn cứ để xem xét. Tuy nhiên căn cứ nội dung của bản di chúc thì thấy: “Bản di chúc thừa kế tài sản” phô tô do bà Bình xuất trình được lập từ ngày 07/7/1199 không thể hiện các phần đất mà cụ Hiển đã phân chia có diện tích cụ thể là bao nhiêu m2 và không có mốc giới cụ thể. Sau khi có văn bản này cụ Hiển vẫn còn sống; 4-5 năm sau (năm 2003- 2004) cụ Hiển đã phân chia thửa đất thành 03 thửa; phân chia cho ông Phong thửa đất số 112; ông Kim thửa đất số 111 và cụ giữ lại thửa đất số 113 cho riêng cụ. Cả 03 thửa đất này đều đã được UBND thi ̣ xa Sơn Tây cấp GGCNQSDĐ hợp pháp đối với từng thửa đất không phát sinh tranh chấp, khiếu nại. Do đó xác định việc cụ Hiển định đoạt tại “Bản di chúc thừa kế tài sản” đã được cụ thay đổi ý chí khi còn sống. Do đó nếu có bản chính “Bản di chúc thừa kế tài sản” lập ngày 07/7/1999 với nội dung đúng như bản phô tô bà Bình xuất trình cũng đã bị chấm dứt, không có hiệu lực thi hành.

Việc bà Bình, anh Thế Anh cho rằng vợ chồng bà Bình đã phải trả thêm khoản tiền mua đất do cụ Hiển còn nợ nhưng không có căn cứ chứng minh; các đương sự khác không thừa nhận. Khi còn sống cụ Hiển đã định đoạt toàn bộ thửa đất đã mua, vợ chồng bà Bình không có ý kiến gì khác. Do đó không cấp sơ thẩm không chấp nhận là có căn cứ.

Tuy nhiên: Khi cụ Hiển mua đất của cụ Liêm trên đất có 01 nhà cấp IV và 01 gian bếp; vợ chồng bà Bình sống cùng với cụ Hiển tại nhà đất này. Năm 1986 vợ chồng ba Binh đa pha bo nha cu xây ngôi nhà mái bằng diện tích khoảng 44 m2 như hiện này; đến năm 2009 gia đình bà Bình sửa lại, tôn nền nhà, nền sân trước nhà, trát lại tường nhà lát nền nhà, lát sân gạch đỏ. Như vậy gia đinh bà Bình đã quản lý, trông nom, phát triển, tôn tạo đất đến nay đã hơn 40 năm. Cấp sơ thẩm không xem xét đến tài sản trên đất, công sức duy trì, tôn tạo đất của gia đình bà Bình; không xác định các tài sản gắn liền trên phần đất phân chia cho các đương sự để tính chênh lệch là thiếu sót. Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà Bình, xác định tài sản trên thửa đất số 113 là tài sản riêng của gia đình bà Bình. Sưa an sơ thâm đối vơi yêu cầu xem xet tai san trên đất và trích công sức đam bao quyền lơi cho gia đình bà Bình là phù hợp theo quy định tại Điều 618, Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2015 và Án lệ số 05/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Cụ thể:

Xác định toan bô quyền sư dung thưa đất số 113 diên tich đo thưc tế 249,3 m2 trị giá thành tiền là (249,3m2 x 4.827.000 đồng/m2) = 1.203.371.100 đồng.

- Cac tai san trên đất gồm: Nha 04 gian môt tầng (54,3 m2 x 3.466.000 đồng/m2)x 40% = 75.281.520 đồng; sân lat gach đo (92,8m2 x 207.000 đồng/m2)x40%= 7.683.840 đồng là tài sản của bà Bình.

Ngoài ra còn 01 cây nhang môt số cây cối, gian hoa co gia tri ̣ không lơn cac đương sư không yêu cầu điṇ h xem xet, điṇ h gia;

Xác định công sức trông nom, quản lý, tôn tao của gia đinh ba Binh đối với phần di sản của cụ Hiên tại thửa đất số 113 tương ứng 1/3 kỷ phần. Do đó trích công sức trông nom, quản lý, tôn tao của gia đinh ba Binh trị giá thành tiền là 1.203.371.100 đồng/(9x3+1)= 42.977.539 đồng (lam tron thanh 42.977.500) đồng.

Sau khi trích công sức duy trì di sản cho gia đình bà Bình thì mỗi kỷ phần thừa kế của cụ Hiển được hưởng trị giá thành tiền là (1.203.371.100 đồng - 42.977.500đồng)/09 kỷ phần = 128.932.622 (đã làm tròn) đồng.

- Ghi nhận việc ba Hoan cho bà Nho kỷ phần của mình được hưởng. Ba Ha, ba Hoa mỗi người cho bà Nho 1/2 ky phần mà họ được hưởng. Do đó ba Nho đươc 03 ky phần. Tinh gia tri ṭhanh tiền la 128.932.622 đồng x 3 kỷ phần = 386.797.866 đồng.

- Ghi nhận việc các ba Ngoc, Nga, Huệ, Lan tặng cho ky phần mà họ đươc hương cho ba Binh; Ba Ha, ba Hoa mỗi người mỗi người cho bà Bình 1/2 ky phần mà họ được hưởng. Tông ba Binh đươc hưởng trị giá thành tiền là [(128.932.622 đồng x 6 kỷ phần) + 42.977.500 đồng (phần được trích công sưc)] = 816.573.232 đồng.

Chia bằng hiện vật:

- Mặc dù bà Bình đề nghị đổi phần bà Nho được chia vào phần đất của gia đình bà tại thửa đất ông Phong được cụ Hiển phân chia nhưng bà Nho không nhất trí nên Hội đồng xét xử chỉ có căn cứ chia kỷ phần thừa kế bằng hiện vật tại thửa đất di sản của cụ Hiển để lại.

Căn cứ thực tế, tình trạng thửa đất, để phù hợp sử dụng. Hội đồng xét xử giữ nguyên về cách chia thửa đất của cấp sơ thẩm nhưng bổ sung thêm về việc thanh toán chênh lệch. Cụ thể:

- Chia (Giao) cho bà Binh được quyền quản lý, sử dụng chung 148,9 m2 đất tại thửa đất số 113, được sở hữu 02 gian nha co diên tich 28,3 m2 va các tài sản gắn liền trên phần đất được giao cho đến khi bà Bình và các con là Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Hải Nam va Nguyễn Thị Mai Phương tự thỏa thuận phân chia kỷ phần của ông Phong hoặc khởi kiện phân chia bằng vụ kiện khác.

- Chia (Giao) cho bà Nho được sử dụng 100,4 m2 đất tại thửa đất số 113, được sở hữu 02 gian nha co diên tich 26 m2 và 58,5 m2 sân; các tài sản gắn liền trên phần đất được giao;

Về thanh toán chênh lệch.

- Giá trị hiện vật ba Nho đươc hương [(100,4m2đất x 4.827.000 đồng/m2)+ (26 m2 nhà x 3.466.000 đ/m2 x 40%) +(58,5m2 sân gạch x 207.000đ/m2 x 40%)]= 525.521.000 đồng. Đối với kỷ phần bà Nho được hưởng, được bà Hoàn, bà Hoa, bà Hà tặng cho trị giá thành tiền là 386.797.866 đồng thì bà Nho đã được chia bằng hiện vật nhiều hơn 138.723.134 (làm tròn là 138.723.000) đồng. Bà Nho phải thanh toán lại phần chênh lệch này.

- Gia đinh ba Binh đươc giao thực tế diên tich 148,9 m2 x 4.827.000 đồng/m2 thanh tiền là 718.740.300 đồng. Đối chiếu với 816.573.232 đồng mà bà Bình được hưởng và 26 m2 nhà + 58,5m2 sân gạch trị giá 40.890.200 đồng trên đất chia (giao) cho bà Nho được hưởng thì bà Bình bị thiếu 138.723.132 (làm tròn là 138.723.000) đồng. Bà Nho phải thanh toán trả lại bà Bình khoản chênh lệch này.

Quan điểm của Kiểm sát viên là có căn cứ pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[3]. Về án phí:

3.1. Về án phí sơ thẩm: Bà Chu Thi Bình, bà Nguyễn Thị Nho là người cao tuổi, xin miễn án phí nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với phần thừa kế được hưởng.

3.2. Về án phí phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 147;148 khoản 2 Điều 308; 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều: 609,610,611,612,613,616,618,623,649,650,651,658,660,688 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí; Điều 2 Luật người cao tuổi.

- Án lệ số 05/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

Xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Chu Thị Bình. Sửa một phần bản án sơ thẩm. Cụ thể:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Nho về việc chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Đăng Hiển theo pháp luật.

1.1 Xác nhận: Cụ Nguyễn Đăng Hiển chết ngày 12/12/ 2009. Thời điểm mở thừa kế của cụ Hiển là ngày cụ Hiển chết. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hiển có 9 kỷ phần gồm: Ba Nguyễn Thị Nho; Bà Nguyễn Thị Hoàn; Ông Nguyễn Đăng Phong (Ông Phong chết năm 2017 do vợ ông Phong là bà Chu Thị Bình và các con là: Anh Nguyễn Thế Anh, anh Nguyễn Hải Nam và chị Nguyễn Thị Mai Phương là người thừa kế chuyển tiếp của ông Phong); Ông Nguyễn Đăng Kim (chết năm 2019 do vợ ông Kim là bà Nguyễn Thị Hoa và các con là: Anh Nguyễn Đăng Kiên, anh Nguyễn Tùng Lâm và chị Nguyễn Thị Hiền là người thừa kế chuyển tiếp của ông Kim); Ông Nguyễn Đăng Thư (chết năm 2016 do vợ ông Thư là bà Nguyễn Thị Nga và các con gồm: Anh Nguyễn Duy Thái, chị Nguyễn Thị Thu Hằng và chị Nguyễn Thị Vân Anh là người thừa kế chuyển tiếp của ông Phong); Bà Nguyễn Thị Lan; Bà Nguyễn Thị Huệ; Bà Nguyễn Thị Ngọc; Bà Nguyễn Thị Hà.

1.2. Xác định khối di sản thừa kế cụ Nguyễn Đăng Hiển là Quyền sử dụng thửa đất số 113, tờ bản đồ 11, diện tích đo thực tế là 249,3 m2; Giấy chưng nhân quyền sư dung đất số T 481717 do UBND thi ̣xa Sơn Tây cấp ngay 06/07/2004 cho chủ sử dụng là cụ Nguyễn Đăng Hiển. Tại: Thôn Tiền Huân, xã Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Trị giá thành tiền là 1.203.371.100 đồng. Trích 42.977.500 đồng công sức duy trì khối di sản cho bà Bình. Sau khi trích công sức duy trì cho bà Bình thì di sản thừa kế của cụ Nguyễn Đăng Hiển còn lại trị giá thành tiền là 1.160.393.600 đồng.

1.3. Chia di sản của cụ Nguyễn Đăng Hiển trị giá bằng tiền cho 9 kỷ phần thừa kế gồm: Ba Nguyễn Thị Nho; Bà Nguyễn Thị Hoàn; Ông Nguyễn Đăng Phong (Ông Phong chết năm 2017 do vợ ông Phong là bà Chu Thị Bình và các con là: Anh Nguyễn Thế Anh, anh Nguyễn Hải Nam và chị Nguyễn Thị Mai Phương là người thừa kế chuyển tiếp của ông Phong); Ông Nguyễn Đăng Kim (chết năm 2019 do vợ ông Kim là bà Nguyễn Thị Hoa và các con là: Anh Nguyễn Đăng Kiên, anh Nguyễn Tùng Lâm và chị Nguyễn Thị Hiền là người thừa kế chuyển tiếp của ông Kim); Ông Nguyễn Đăng Thư (chết năm 2016 do vợ ông Thư là bà Nguyễn Thị Nga và các con gồm: Anh Nguyễn Duy Thái, chị Nguyễn Thị Thu Hằng và chị Nguyễn Thị Vân Anh là người thừa kế chuyển tiếp của ông Phong); Bà Nguyễn Thị Lan; Bà Nguyễn Thị Huệ; Bà Nguyễn Thị Ngọc; Bà Nguyễn Thị Hà. Mỗi kỷ phần được hưởng 128.932.622 đồng.

1.4. Ghi nhận việc ba Nguyễn Thị Hoan tự nguyện tặng cho bà Nguyễn Thị Nho kỷ phần của mình được hưởng. Ba Nguyễn Thị Ha, ba Nguyễn Thị Hoa mỗi người cho bà Nguyễn Thị Nho 1/2 ky phần mà họ được hưởng. Xác định bà Nguyễn Thị Nho đươc hưởng 03 ky phần thừa kế, gia tri ṭhanh tiền la 386.797.866 đồng.

1.5. Ghi nhận việc các ba Nguyễn Thị Ngoc, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Thị Lan tặng cho ky phần mà họ đươc hương cho ba Chu Thị Binh; Ba Nguyễn Thị Ha, ba Nguyễn Thị Hoa mỗi người cho bà Bình 1/2 ky phần mà họ được hưởng. Xác định ba Chu Thị Binh đươc hưởng 06 kỷ phần thừa kế trị giá thành tiền là 773.595.732 đồng và được hưởng 42.977.500 đồng được trích thanh toán công sưc duy trì khối di sản. Tổng bà Bình được hưởng 816.573.232 đồng.

1.6. Chia bằng hiện vật:

1.6.1. Chia (Giao) cho bà Chu Thi ̣Binh được quyền quản lý, sử dụng 148,9 m2 đất và các tài sản (02 gian nha diêṇ tich 28,3 m2, phần sân lát gạch đỏ, cây hương, cây cối...) gắn liền trên 148,9 m2 đất được chia (giao) tại thửa đất số 113, tờ bản đồ 11, diện tích đo thực tế là 249,3 m2; Giấy chưng nhân quyền sư dung đất số T 481717 do UBND thi ̣ xa Sơn Tây cấp ngay 06/07/2004 cho chủ sử dụng là cụ Nguyễn Đăng Hiển. Tại: Thôn Tiền Huân, xã Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Giới hạn bởi các điểm: 1,1/,6,7,8,1 trong sơ đồ kèm theo bản án cho đến khi bà Bình và các con là Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Hải Nam va Nguyễn Thị Mai Phương tự thỏa thuận phân chia kỷ phần của ông Phong hoặc khởi kiện phân chia bằng vụ kiện khác.

1.6.2. Chia (Giao) cho bà Nguyễn Thị Nho được quyền quản lý, sử dụng 100,4 m2 đất được sở hữu các tài sản (02 gian nha diêṇ tich 26 m2, 58,5 m2 sân lát gạch đỏ, cây cối..)gắn liền trên 100,4 m2 đất được chia (giao) tại thửa đất số 113, tờ bản đồ 11, diện tích đo thực tế là 249,3 m2; Giấy chưng nhân quyền sư dung đất số T 481717 do UBND thi x̣ a Sơn Tây cấp ngay 06/07/2004 cho chủ sử dụng là cụ Nguyễn Đăng Hiển. Tại: Thôn Tiền Huân, xã Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Giới hạn bởi các điểm:

1/,2,3,4,5,6,1/ trong sơ đồ kèm theo bản án.

1.6.3. Bà Chu Thị Bình và bà Nguyễn Thị Nho có quyền, nghĩa vụ chủ động đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký kê khai; đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với phần đất, phần tài sản được chia (giao) theo quyết định của bản án và theo quy định của pháp luật.

1.6.4. Khi có yêu cầu: Người đang quản lý (giữ) Giấy chưng nhân quyền sư dung đất số T 481717 do UBND thi ̣xa Sơn Tây cấp ngay 06/07/2004 cho ông Nguyễn Đăng Hiển có nghĩa vụ giao nộp cho Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để cấp mới hoặc điều chỉnh lại tên chủ sử dụng đất, chủ sử dụng tài sản gắn liền với đất theo Quyết định của bản án và theo quy định của pháp luật. Trường hợp không giao hoặc không thể giao lại được thì Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định tại Điều 178 Luật thi hành án dân sự năm 2014 và Điều 28 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ hướng dẫn Luật thi hành án dân sự.

1.7. Buộc bà Nguyễn Thị Nho phải thanh toán trả bà Chu Thị Bình 138.723.000 (Một trăm ba mươi tám triệu, bảy trăm hai mươi ba nghìn) đồng tiền chênh lệch tài sản và giá trị phần tài sản gắn liền trên đất được hưởng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người phải thi hành án nghĩa vụ trả tiền chưa thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền thì còn phải chịu lãi đối với số tiền chưa thanh toán xong theo mức lãi suất 10%/năm (theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015).

2. Về án phí:

Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bà Chu Thị Bình và bà Nguyễn Thị Nho. Bà Chu Thị Bình không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế số 415/2023/DS-PT

Số hiệu:415/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về