Bản án về tranh chấp thừa kế số 13/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 13/2024/DS-PT NGÀY 11/01/2024 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ

Ngày 11 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 97/2023/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2023 về việc tranh chấp thừa kế.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2023/DS-ST ngày 29 tháng 06 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 205/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Võ Trung T; cư trú tại: Thôn H, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Thanh H, hoạt động tại Văn phòng L1; địa chỉ: B L, phường Đ, thị xã A, thuộc đoàn luật sư tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Võ Q; cư trú tại: Thôn N, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Bà Nguyễn Thị H1; cư trú tại: Thôn N, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định.

Đại diện hợp pháp: Ông Huỳnh Văn V - Phó chánh Văn phòng HĐND và UBND huyện H là đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 733/QĐ-UBND ngày 17/11/2020); có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

2. Ủy ban nhân dân xã Â, huyên H, tỉnh Bình.

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn L - Chủ tịch; vắng mặt.

3. Ông Võ N; cư trú tại: Thôn K, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.

4. Bà Võ Thị Kim H2; có mặt.

5. Ông Võ Văn Đ.

6. Bà Trần Thị Đ1.

7. Ông Võ Văn T1.

8. Bà Võ Thị Hồng T2.

Cùng cư trú: Thôn N, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.

9. Bà Võ Thị Đ2; cư trú tại: Thành phố B, Đắk Lắk.

10. Bà Võ Thị Thúy P.

11. Ông Võ Văn P1.

12. Bà Võ Thị C.

13. Bà Võ Thị Hồng B.

(Con của ông Võ Q, nhưng ông Q không cung cấp được địa chỉ).

- Người kháng cáo: Ông Võ Trung T là nguyên đơn, bà Võ Thị Kim H2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Võ Trung T trình bày:

Nguyên cha ông là Võ Đ3, mẹ là Đặng Thị T3. Cha mẹ ông sinh được 04 người con là: Võ Quy, Võ N, Võ Trung T, Võ Thị Kim H2 (SN 1964). Sau năm 1975, cha mẹ ông xây dựng nhà trên thửa đất của gia đình địa chủ bỏ hoang, tại thôn N, Â, H. Thời gian sau này các anh, chị em đã lớn có gia đình ở riêng, năm 1990 ông về ở theo phía vợ ở Â, H. Năm 1995 mẹ ông chết, năm 1996 cha ông chết (không có di chúc), nhà và thửa đất bỏ hoang không ai sử dụng, năm 1997 UBND huyện H đã cân đối giao QSD thửa đất cho ông Võ Q, thửa đất có số hiệu 386, tờ bản đồ số 16, diện tích 1.400m2. Nay ông yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với thửa đất đó. Ngoài ra ông T còn yêu cầu là: Ông còn một ông bác ruột là Võ M, cũng có 01 thửa đất gần đó, được nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ vào năm 1997, có số hiệu 377 tờ bản đồ 16, diện tích 710m2 (300m2 đất ở, 410m2 đất vườn), ông M có vợ nhưng không có con, vợ ông M chết trước khi ông M được cấp QSDĐ, đến năm 2004 ông M chết không để lại di chúc. Nay ông yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với thửa đất của ông M và yêu cầu được nhận toàn bộ thửa đất, giao lại giá trị kỷ phần thừa kế cho cho các đồng thừa kế khác. Ngày 03/5/2023, ông T có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc chia thừa kế thửa đất của ông Võ Quy .

Bị đơn ông Võ Quy trình b:

Về quan hệ gia đình ông thống nhất như ông T trình bày. Thời gian cha, mẹ còn sống thì thửa đất đó là đất hoang, cha mẹ ông xây dựng nhà ở chứ không có giấy tờ gì, năm 1990 ông T đã về ở theo phía vợ tại Â, H, ông là người trực tiếp chăm sóc cha mẹ. Sau khi cha, mẹ chết thì đất đó bỏ hoang, ông tận dụng trồng hoa màu, đến năm 1996 thì ông kê khai để được nhà nước cân đối giao quyền theo Nghị định 64/CP, do hộ ông đông nhân khẩu, nên nhà nước đã giao quyền sử dụng diện tích thửa đất màu có số hiệu 386, tờ bản đồ số 16, diện tích 1.400m2 cho ông, năm 2010 ông làm thủ tục chuyển toàn bộ diện tích đất đó thành đất ở, năm 2012 ông tách thửa cho con ông là Võ Văn Đ 392,5m2. Từ thời gian cha, mẹ ông chết cho đến năm 2019 thì không có anh, chị em nào có ý kiến hay tranh chấp gì. Nay ông T yêu cầu chia thừa kế thửa đất đó thì ông không chấp nhận, vì thửa đất đã được nhà nước cân đối giao QSD cho hộ gia đình ông. Đối với thửa đất của bác ruột là Võ M, ông T yêu cầu chia thừa kế thì Tòa án căn cứ vào pháp luật để giải quyết, kỷ phần của ông thì ông không nhận, bà Nguyễn Thị H1 là cháu gọi ông M bằng cậu ruột, cũng là đồng thừa kế, nên ông tự nguyện giao kỷ phần của ông cho bà H3 được hưởng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, bà Nguyễn Thị H1 trình bày:

Bà gọi ông Võ M là cậu ruột, gọi ông T, ông Q là anh con cậu ruột. Năm 2005, ông Võ Trung T có bán thửa đất và ngôi nhà của ông Võ M cho bà (ngôi nhà gỗ, lợp tranh đã hư hỏng), bà có yêu cầu độc lập để toà án xem xét công nhận QSDĐ cho bà, nhưng bà không có đủ tài liệu để chứng minh, nên bà rút yêu cầu. Nay bà yêu cầu được chia một phần di sản của ông Võ M, bà chấp nhận việc ông Võ Q giao kỷ phần của ông Q cho bà nhận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện H và UBND xã Â trình bày:

Năm 1997 nhà nước cân đối giao QSDĐ cho ông Võ M theo Nghị định 64/CP, giao cho ông M 01 thửa ruộng và thửa đất số hiệu 377 tờ bản đồ số 16, diện tích 710m2 (300m2 đất ở, 410m2 đất vườn), nay ông T yêu cầu thẩm định với diện tích đất trên 3.000m2 là không đúng, vì phần đất rừng phía trên là đất do nhà nước quản lý, chưa giao QSD cho người nào, cũng không thuộc trong thửa đất của ông M.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ N trình bày:

Thửa đất tranh chấp trước đây do cha mẹ ông sử dụng, chưa có giấy tờ gì, sau khi cha mẹ ông chết thì bỏ hoang, không ai sử dụng, đến năm 1997 nhà nước cân đối giao quyền cho ông Võ Q, ông Q sử dụng từ đó đến nay không ai tranh chấp. Đối với thửa đất của ông Võ M, ông T yêu cầu chia thừa kế thì tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết, ông cũng là người đồng hàng thừa kế nhưng ông từ chối nhận di sản thừa kế.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Kim H2 trình bày:

Thửa đất tranh chấp chia thừa kế trước đây do cha mẹ bà sử dụng, sau khi cha mẹ bà chết thì bỏ hoang, không ai sử dụng. Việc ông Võ Q làm thủ tục để được cấp sổ như thế nào thì bà không biết, vì từ ngày cha chết thì bà không đi về. Đối với thửa đất của ông Võ M thì bà không có yêu cầu gì, Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết theo yêu cầu của ông T chứ bà không nhận thừa kế, kỷ phần của bà thì giao cho ông T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Đ1 trình bày:

Thửa đất ông T yêu cầu chia thừa kế là đất đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ vợ chồng bà, vợ chồng bà sử dụng ổn định lâu dài không có ai tranh chấp. Do vậy bà khẳng định vợ chồng bà sử dụng đất hợp pháp, bà không chấp nhận yêu cầu của ông T về việc chia thừa kế đất của hộ ông Võ Quy .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn Đ trình bày:

Thửa đất ông T tranh chấp là đất nhà nước cân đối giao quyền cho hộ gia đình ông, do cha ông là Võ Q đứng tên, năm 2012 cha ông làm thủ tục cho ông 392,5m2 và đã được cấp giấy chứng nhận. Nay ông không chấp nhận yêu cầu của ông T về việc chia thừa kế đất của hộ ông Võ Quy .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Đ2 trình bày:

Bà hoàn toàn thống nhất như trình bày và yêu cầu của ông Võ Q, thửa đất ông T tranh chấp là đất nhà nước cân đối giao quyền cho hộ gia đình bà, do cha bà là Võ Q đứng tên, gia đình sử dụng ổn định, không ai tranh chấp. Nay bà không chấp nhận yêu cầu của ông T về việc chia thừa kế đất của hộ ông Võ Quy .

Bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2023/DS-ST ngày 29 tháng 06 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.

Giao thửa đất có số hiệu 377 tờ bản đồ số 16 có diện tích là 710m2 (400m2 đất ở, 310m2 đất vườn) tại thôn N, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; theo giấy chứng nhận QSDĐ số L 251311 ngày 18/11/1997, do UBND huyện H cấp cho cụ Võ M, và tài sản trên đất gồm 07 cây dừa già cổi, 01 cây mít đường kính 30cm; là di sản của cụ Võ M; cho ông Võ Trung T được quyền sở hữu, sử dụng.

Ông Võ Trung T được quyền sở hữu toàn bộ số cây keo do bà H3 trồng trên diện tích 710m2 đất của cụ M. Ông Võ Trung T có trách nhiệm thối lại 2,5 kỷ phần thừa kế cho bà Nguyễn Thị H4 là 32.785.000đ. Ông Võ trung T4 thối lại cho bà Nguyễn Thị H4 4.970.000đ, về giá trị số cây keo có trên diện tích đất. Ông Võ Trung T có trách nhiệm liên hệ với cơ quan chức năng để làm thủ tục đăng ký QSDĐ theo quy định (có sơ đồ thửa đất kèm theo).

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của ông Võ Trung T đối với thửa đất số hiệu 386 tờ bản đồ số 16, diện tích 1.400m2 được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận cho hộ ông Võ Q (ông T tút yêu cầu). Đình chỉ yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị H4, về việc công nhận QSDĐ tại thửa số 377, tờ bản đồ số 16, UBND huyện H cấp cho ông Võ M ( bà H4 rút yêu cầu).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.

Ngày 12 tháng 07 năm 2023, ông Võ Trung T và bà Võ Thị Kim H2 kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2023/DS- ST ngày 29 tháng 06 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân.

Luật sư Nguyễn Thanh H trình bày luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Võ Trung T: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận kháng cáo của ông Võ Trung T hủy bản án sơ thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về Tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của ông Võ Trung T, hủy bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của ông Võ Trung T, HĐXX thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm đã có những vi phạm như sau:

[1.1] Thứ nhất: Ngày 12 tháng 07 năm 2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị Kim H2, sinh năm 1964 kháng cáo, mặc dù trong hồ sơ vụ án không có chứng cứ thể hiện bà H2 thuộc đối tượng được miễn, giảm nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, theo quy định của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV, nhưng cấp sơ thẩm không tiến hành thủ tục để bà H2 nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, mà vẫn ra thông báo kháng cáo và chuyển hồ sơ vụ án lên cấp phúc thẩm giải quyết, dẫn đến cấp phúc thẩm không có căn cứ xét kháng cáo của bà H2, làm mất đi quyền kháng cáo của bà H2.

[1.2] Thứ hai: Trong hồ sơ vụ án không có chứng cứ thể hiện mẹ bà Nguyễn Thị H1 họ tên là gì, sinh, mất vào thời gian nào, trong khi ông Võ Trung T và bà Võ Thị Kim H2 luôn khẳng định ông bà nội của họ là cụ Võ T5 và cụ Nguyễn Thị Đ4 không có con riêng và mẹ bà H1 không phải là con của vợ chồng cụ T5, cụ Đ4, nhưng cấp sơ thẩm không xác minh thu thập chứng cứ về nhân thân của bà H1, cha mẹ bà H1 mà chỉ căn cứ vào lời khai của bà H1 và một số người nhỏ tuổi hơn bà H1 như bà Võ Thị V1, bà Nguyễn Thị Đ5 và bản xác minh tại UBND xã Â để xác định bà mẹ bà H1 là con của vợ chồng cụ T5, cụ Đ4 và cho bà H1 được nhận di sản thừa kế của ông Võ M là chưa có đủ cơ sở vững chắc. Mặt khác, hồ sơ vụ án thể hiện bà Nguyễn Thị H1 khai có một người em ruột là ông Võ S, cấp sơ thẩm cho bà H1 hưởng thừa kế của vợ chồng ông M, bà T6, nhưng không đưa ông Võ S vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, là bỏ sót người tham gia tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp cũng như làm mất đi quyền kháng cáo của ông S.

[1.3] Thứ ba: Ông Võ M chết tháng 3/2004, vợ ông M là bà Phan Thị T7 chết tháng 01/2004, cấp sơ thẩm xác định vợ chồng ông M, bà T7 không có con chung, con riêng và cho cháu ruột của ông M được hưởng thừa kế của vợ chồng ông M, nhưng lại không xác minh, thu thập chứng cứ về những người được thừa kế di sản của bà T7, cũng như về cha và anh em ruột của bà H1 để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và cho họ được hưởng thừa kế của vợ chồng ông M, bà T7 là xác minh, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. Hơn nữa, trong hồ sơ vụ án và diễn biên tại phiên tòa phúc thẩm đều thể hiện ông Võ M có 01 người con riêng (đã chết) và 03 người cháu ngoại, nhưng cấp sơ thẩm không xác minh, thu thập chứng cứ, làm rõ về vấn đề này để xác định về hàng thừa kế, người được hưởng thừa kế của ông M, là làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người ở hành thừa kế thứ hai của ông M, trong khi các ông, bà Võ Q, Võ N, Võ Trung T, Võ Thị Kim H2 là những người ở hàng thừa kế thứ ba của ông M.

[1.4] Thứ tư, cấp sơ thẩm không lập Biên bản định giá tài sản, mà lập Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ, trong Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lại có thể hiện nội dung về định giá đất và tài sản trên đất nên cấp sơ thẩm đã vi phạm về thủ tục xem xét, thẩm định tại chỗ và thủ tục định giá tài sản được quy định tại các Điều 101, 104 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Từ những phân tích trên, xét thấy cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kháng cáo của ông Võ Trung T là có căn cứ nên được chấp nhận. Hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[3] Về án phí, chi phí tố tụng khác: Theo quy định tại khoản 3 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì án phí sơ thẩm sẽ được giải quyết khi giải quyết lại vụ án, ông Võ Trung T được M1 án phí dân sự phúc thẩm vì là người cao tuổi. Chi phí tố tụng khác sẽ được giải quyết khi giải quyết lại vụ án.

Luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn của luật sư Nguyễn Thanh H là phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng tại cấp phúc thẩm cũng như về việc giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của HĐXX.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận kháng cáo của ông Võ Trung T. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2023/DS-ST ngày 29 tháng 06 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

2. Về án phí, chi phí tố tụng khác:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng khác sẽ được giải quyết khi giải quyết lại vụ án.

2.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Võ Trung T được miễn nộp.

3. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế số 13/2024/DS-PT

Số hiệu:13/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về