Bản án về tranh chấp thu giữ tài sản bảo đảm số 04/2023/KDTM-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NĐ

BẢN ÁN 04/2023/KDTM-PT NGÀY 14/06/2023 VỀ TRANH CHẤP THU GIỮ TÀI SẢN BẢO ĐẢM

Ngày 14 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh NĐ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2022/TLPT-KDTM ngày 12 tháng 12 năm 2022 về “Tranh chấp thu giữ tài sản bảo đảm”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2022/KDTM-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 59/2023/QĐ-PT ngày 18 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B; địa chỉ: Lô 27, đường N2, cụm công nghiệp An Xá, xã Lộc An, thành phố NĐ, tỉnh NĐ.

Người đại diện của nguyên đơn:

1. Ông Nguyễn Thành V, sinh năm 1977; nơi cư trú: Số 14 phố Lê Trực, phường Điện Biên, quận BĐ, thành phố HN; Nơi tạm trú: Tầng 9, toà nhà 3 D, số 3, Duy Tân, phường Dịch Vọng Hậu, quận CG, thành phố HN. Là người đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B (văn bản ủy quyền số 0529/2019/UQ-BVMB ngày 19-5-2019 và Nghị quyết Hội đồng thành viên số 01/2022/NQ-HĐTV ngày 20-7-2022).

2. Ông Đinh Tiến S, nơi cư trú: Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Quân khu 5. Là thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1971; nơi cư trú: Số 01/40 đường CCL, phường 13, quận TB, thành phố HCM (văn bản ủy quyền ngày 24-8-2022).

3. Ông Trần V L, nơi cư trú: Thôn ĐY, xã KLi, thị xã KA, tỉnh HT. Là thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B.

4. Bà Nguyễn Thị X, nơi cư trú: Số 189 đường Thiên Đ, phường Vệ An, thành phố B, tỉnh B. Là thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B.

5. Bà Nguyễn Thị P, nơi cư trú: Tập thể Đại học Luật HN, phường Láng Hạ, quận Đ, thành phố HN. Là thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B.

- Bị đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Q; địa chỉ: Số 18 đường Lê V Lương, phường Trung Hòa, quận CG, thành phố HN; người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Hữu Đ - chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Q; người đại diện theo ủy quyền: Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q (Hợp đồng ủy quyền số 154/UQ.MB-M ngày 18-3-2021); người đại diện theo ủy quyền lại: Bà Lê Thanh N, sinh năm 1979 - chức vụ: Trưởng phòng quản lý tố tụng Trung tâm xử lý nợ M (văn bản ủy quyền số 27/UQ-M ngày 10-01-2022).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B;

địa chỉ: Số 36A đường Núi Thành, phường 13, quận T, thành phố HCM.

Người đại diện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B:

1.1. Ông Nguyễn Cường L, sinh năm 1958; nơi cư trú: Số 16/119 đường Nguyễn Hiền, phường Trần Đăng Ninh, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Là người đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B (văn bản ủy quyền số 606/2019/GUQ-BV ngày 06-6-2019).

1.2. Bà Nguyễn Hồng Hà T, sinh năm 1997; nơi cư trú: Tổ 2, phường Mường Thanh, thành phố Đ, tỉnh Đ.

Là người đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B (văn bản ủy quyền số 606/2019/GUQ-BV ngày 06-6-2019).

1.3. Ông Đinh Tiến S, nơi cư trú: Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Quân khu 5. Là thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B. Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1971; nơi cư trú: Số 01/40 đường CCL, phường 13, quận TB, thành phố HCM (văn bản ủy quyền ngày 24-8-2022).

1.4. Ông Nguyễn Trung V, nơi cư trú: Thôn 7, xã Kỳ Phong, huyện Kỳ Anh, tỉnh H. Là thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B.

1.5. Ông Phùng Đình K, nơi cư trú: Số 21C đường C1 - Cộng Hòa, phường 13, quận T, thành phố HCM. Là thành viên góp vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B.

2. Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q; địa chỉ: Tầng 8, số 3 đường Liễu Giai, phường Liễu Giai, quận BĐ, thành phố HN; người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm V p - chức vụ: Tổng giám đốc M.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thanh N- chức vụ: Trưởng phòng quản lý tố tụng Trung tâm xử lý nợ M (văn bản ủy quyền số 27/UQ-M ngày 10-01-2022).

Người đại diện theo ủy quyền lại:

2.1. Ông Nguyễn Mạnh C - chức vụ: Chuyên viên tố tụng hệ thống M (văn bản ủy quyền số 3946/UQ-M ngày 27-9-2022).

2.2. Ông Đoàn Đ H - chức vụ: Chuyên viên xử lý nợ M (văn bản ủy quyền số 3946/UQ-M ngày 27-9-2022).

2.3. Ông Đào Duy C, sinh năm 1997 - chức vụ: Chuyên viên tố tụng hệ thống M (văn bản ủy quyền số 3946/UQ-M ngày 27-9-2022).

3. Công ty cổ phần Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu S (tên cũ: Công ty cổ phần bán đấu giá S); địa chỉ: Số 12, lô B8, khu đô thị Đầm Trấu, phường Bạch Đằng, quận H, thành phố HN; người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình H - chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu S.

- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thành V là người đại diện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B là nguyên đơn trong vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Có mặt ông Nguyễn Thành V, bà Lê Thanh N, ông Đào Duy C. Vắng mặt ông Đinh Tiến S, bà Nguyễn Thị Th, ông Nguyễn Mạnh C, ông Đoàn Đ H, ông Trần V L, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Cường L, bà Nguyễn Hồng Hà T, ông Nguyễn Trung V, ông Phùng Đình K, ông Nguyễn Đình H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện nộp ngày 24 tháng 5 năm 2019 và trong quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B) là ông Nguyễn Thành V trình bày:

Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B (sau đây gọi tắt là Công ty B) được thành lập lần đầu ngày 07-9-2012, có trụ sở tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Lộc An, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B (sau đây gọi tắt là Công ty B) được thành lập lần đầu ngày 18-7- 2002, có trụ sở tại địa chỉ: Số 36A đường Núi Thành, phường 13, quận T, thành phố HCM. Cả hai công ty đều do ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên hai công ty đều có tư cách pháp nhân, hoạt động độc lập và không sở hữu cổ phần của nhau.

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty B đã vay tiền của Ngân hàng thương mại cổ phần Q (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Q) theo 02 hợp đồng tín dụng là:

Hợp đồng tín dụng số 6076.16.120.1670760.TD ngày 23-5-2016 có hạn mức tín dụng là 85.000.000.000 đồng.

Hợp đồng cho vay số 12545.17.120.1670760.TD ngày 07-7-2017 có số tiền cho vay là 79.555.000.000 đồng.

Để bảo đảm cho các khoản nợ của Công ty B tại Ngân hàng Q có nhiều hợp đồng thế chấp khác nhau. Trong đó có Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017, nội dung: Công ty B thế chấp toàn bộ nhà điều hành, xưởng sản xuất và các công trình phụ trợ khác cùng toàn bộ các quyền và lợi ích phát sinh tại địa chỉ: Lô số 27, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ cho Ngân hàng Q. Hợp đồng do ông Bùi Thọ V - chức vụ: Giám đốc điều hành của Công ty B ký tên, đóng dấu và được công chứng tại p công chứng số 1 tỉnh NĐ. Tuy nhiên ông Bùi Thọ V chỉ là giám đốc điều hành, không phải người đại diện theo pháp luật của Công ty B. Tại thời điểm ký hợp đồng thế chấp, ông Bùi Thọ V không có giấy ủy quyền của ông Đinh Tiến S. Điều này thể hiện ngay trong trang 1 của hợp đồng thế chấp số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 có ghi mục “Ủy quyền số:..., ngày..../..../... của...” nhưng không ghi nội dung. Ông Đinh Tiến S và Công ty B không thừa nhận việc ông Bùi Thọ V ký Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 để bảo đảm cho nghĩa vụ của Công ty B. Lý do là nếu đồng ý với việc thế chấp này thì ông Đinh Tiến S sẽ làm giấy ủy quyền hợp lệ cho ông Bùi Thọ V ký hợp đồng thế chấp. Do vậy Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 là vô hiệu, Công ty B cũng không đồng ý thực hiện hợp đồng thế chấp này.

Đối với các máy móc, thiết bị, hàng hóa và các tài sản khác thuộc sở hữu của Công ty B có tại địa chỉ: Lô số 27, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ thì Công ty B không thế chấp cho Ngân hàng Q.

Đối với việc Công ty B có thế chấp các máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng Q thì Công ty B không biết. Chỉ sau khi Ngân hàng Q tiến hành thu giữ tài sản ngày 06-02-2018 thì Công ty B mới biết về việc Công ty B và Ngân hàng Q có ký hợp đồng thế chấp số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016, nội dung Công ty B thế chấp số máy móc thiết bị (có danh mục kèm theo) thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng Q. Trong hợp đồng thế chấp không nêu địa điểm ký hợp đồng, không nêu địa chỉ có tài sản, không nêu về giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản. Trong phụ lục hợp đồng có nêu số máy móc, thiết bị đã qua sử dụng tại Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Đây không phải là địa chỉ của Công ty B. Công ty B không được tham gia ký hợp đồng này, cũng không được thông báo về việc có hợp đồng thế chấp máy móc thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016.

Trên thực tế, ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật, đồng thời cũng là người góp vốn lớn nhất của hai công ty là Công ty B và Công ty B. Do vậy trong số máy móc, thiết bị đang để tại nhà xưởng của Công ty B có thể có cả những máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B. Tuy nhiên, do toàn bộ trụ sở Công ty B đang bị Ngân hàng Q thu giữ, niêm phong nên Công ty B không có tài liệu, hồ sơ để nộp cho Tòa án, cũng chưa thể xác định được có bao nhiêu máy móc, thiết bị, hàng hóa, tài sản thuộc sở hữu của Công ty B và của Công ty B đang có trong nhà xưởng.

Hiện tại Công ty B đang bị Ngân hàng Q thu giữ tài sản là nhà điều hành, nhà xưởng, các công trình phụ trợ thuộc sở hữu của Công ty B tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Số tài sản này đã được Ngân hàng Q ủy quyền cho Công ty cổ phần bán đấu giá S tiến hành bán đấu giá. Ngoài ra, Ngân hàng Q còn niêm phong, quản lý toàn bộ máy móc, thiết bị và tài sản lưu động là nguyên liệu may mặc, vải và sản phẩm đã hoàn thành... chứa trong 06 container, cùng với một số tài sản khác của Công ty B để trong khuôn viên công ty.

Quá trình Ngân hàng Q thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm của Công ty B đã không tuân thủ các quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Cụ thể như sau:

Đối với việc thu giữ tài sản là bất động sản: Ngân hàng Q không gửi thông báo về việc thu giữ tài sản bảo đảm cho Công an xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ, vi phạm điểm b khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 42; không gửi thông báo về việc thu giữ tài sản bảo đảm cho Công ty B bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm, vi phạm điểm d khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 42.

Đối với việc thu giữ tài sản là động sản: Ngân hàng Q không gửi thông báo về việc thu giữ tài sản bảo đảm cho Ủy ban nhân dân phường 13, quận T, thành phố HCM là nơi Công ty B đăng ký trụ sở, vi phạm điểm a khoản 4 Điều 7 Nghị quyết số 42; không gửi thông báo về việc thu giữ tài sản bảo đảm cho Công ty B bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm, vi phạm điểm b khoản 4 Điều 7 Nghị quyết số 42.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty B yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 là vô hiệu.

Tuyên bố hủy bỏ việc thu giữ tài sản bảo đảm theo các Quyết định số 029/QĐ- MB-SG ngày 16-01-2018 và Quyết định số 030/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018. Buộc Ngân hàng Q trả lại toàn bộ số tài sản đã thu giữ trái pháp luật là nhà điều hành, nhà xưởng, các công trình phụ trợ và toàn bộ máy móc, thiết bị, tài sản khác tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ cho Công ty B và Công ty B.

Yêu cầu Tòa án ra quyết định thẩm định giá tài sản bị thu giữ tại thời điểm thu giữ, làm căn cứ yêu cầu Ngân hàng Q bồi thường cho Công ty B và Công ty B.

Tại thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm ngày 29-9-2022, ông Nguyễn Thành V trình bày quan điểm Công ty B rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 là vô hiệu.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần Q đã được Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt hợp lệ nhiều lần giấy triệu tập và thông báo về việc yêu cầu giao nộp tài liệu chứng cứ nhưng Ngân hàng thương mại cổ phần Q không cử người đại diện đến làm việc, không giao nộp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền lại của Ngân hàng thương mại cổ phần Q là bà Lê Thanh Ntrình bày:

Ngân hàng Q có cho Công ty B vay vốn theo các hợp đồng tín dụng sau:

Hợp đồng tín dụng số 143.13.111.1670760.TD.TDH.DN ngày 27-12-2013.

Nội dung cho vay mua ô-tô. Số tiền cho vay là 407.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 186.14.111.1670760.TD.DH.DN ngày 01-7-2014. Nội dung cho vay để thực hiện dự án xây dựng khách sạn Bavico Nha Trang. Tổng số tiền cho vay tối đa là 185.000.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 16102.15.120.1670760.TD ngày 26-8-2015. Nội dung cho vay thực hiện dự án xây dựng khách sạn Bavico Đà Lạt. Tổng số tiền cho vay là 180.000.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 12545.17.120.1670760.TD ngày 07-7-2017. Nội dung cho vay bổ sung vốn cho khách sạn Bavico Nha Trang và khách sạn Bavico Đà Lạt. Tổng số tiền cho vay là 79.555.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 6076.16.120.1670760.TD ngày 23-5-2016. Nội dung cấp hạn mức tín dụng là 85.000.000.000 đồng.

Tính đến ngày 16-01-2018, dư nợ của Công ty B tại Ngân hàng Q là: 450.363.000.000 đồng; trong đó dư nợ gốc là 435.459.000.000 đồng, dư nợ lãi là 14.904.000.000 đồng.

Để bảo đảm cho các khoản vay của Công ty B tại Ngân hàng Q có nhiều tài sản thế chấp. Trong đó có các tài sản thế chấp liên quan đến tranh chấp thu giữ tài sản bảo đảm trong vụ án này, cụ thể như sau:

Tài sản gắn liền với đất là toàn bộ nhà điều hành, xưởng sản xuất và các công trình phụ trợ khác cùng toàn bộ các quyền và lợi ích phát sinh tại địa chỉ: Lô số 27, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ của Công ty B theo Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 giữa Công ty B và Ngân hàng Q. Hợp đồng thế chấp do ông Bùi Thọ V - chức vụ: Giám đốc điều hành Công ty B được ủy quyền ký theo nội dung của các biên bản họp hội đồng thành viên Công ty B vào các ngày 03-12-2013, 24-12-2013, 02-4-2015, 23-5-2016. Hợp đồng thế chấp được công chứng tại p công chứng số 1 tỉnh NĐ vào ngày 28-3- 2017; đăng ký giao dịch bảo đảm tại V phòng đăng ký đất đai Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh NĐ ngày 28-3-2017.

Các máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ (trụ sở Công ty B) theo Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016 giữa Công ty B và Ngân hàng Q. Hợp đồng thế chấp do ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật của Công ty B ký. Đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại thành phố HCM thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm ngày 27-5-2016.

Từ ngày 05-10-2017 Công ty B bắt đầu vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và trả lãi cho Ngân hàng Q. Kể từ tháng 01 năm 2018 các khoản nợ của Công ty B bị xếp hạng nợ xấu nhóm 3. Ngày 16-01-2018 Ngân hàng Q đã bàn giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q (gọi tắt là M) khoản nợ xấu của Công ty B để xử lý thu hồi nợ theo quy định.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B là ông Nguyễn Cường L trình bày:

Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại - Dịch vụ B được thành lập lần đầu ngày 18-7-2002, có trụ sở tại địa chỉ: Số 36A đường Núi Thành, phường 13, quận T, thành phố HCM. Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B được thành lập lần đầu ngày 07-9- 2012, có trụ sở tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Lộc An, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Cả hai công ty này đều do ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên hai công ty này đều có tư cách pháp nhân, hoạt động độc lập và không sở hữu cổ phần của nhau.

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Công ty B đã vay tiền của Ngân hàng Q theo các hợp đồng tín dụng sau:

Hợp đồng tín dụng số 6076.16.120.1670760.TD ngày 23-5-2016 có hạn mức tín dụng là 85.000.000.000 đồng. Thời hạn cấp tín dụng đến ngày 30-4-2017. Mục đích để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh giai đoạn 2016-2017 của Công ty B. Lãi suất tính theo từng lần nhận nợ.

Hợp đồng cho vay số 12545.17.120.1670760.TD ngày 07-7-2017 có số tiền cho vay là 79.555.000.000 đồng. Thời hạn cho vay là 08 năm kể từ ngày giải ngân đầu tiên. Mục đích để bổ sung vốn đầu tư vào dự án khách sạn tại thành phố Đà Lạt và thành phố Nha Trang của Công ty B. Lãi suất tính theo từng lần nhận nợ.

Ngoài ra Công ty B còn vay tiền của Ngân hàng Q trong một số hợp đồng tín dụng khác, nhưng không liên quan đến việc thu giữ tài sản bảo đảm có tranh chấp trong vụ án.

Để bảo đảm cho các khoản nợ của Công ty B tại Ngân hàng Q, có các tài sản thế chấp sau:

Quyền tài sản trong công trình Trung tâm Thương mại - Dịch vụ B được hợp tác giữa Công ty B với Bộ tư lệnh Quân khu 5.

Bất động sản tại thửa 20 tờ bản đồ 87, địa chỉ: Số 36A đường Núi Thành, phường 13, quận T, thành phố HCM.

Bất động sản tại thửa 934 tờ bản đồ 2, địa chỉ: Số 1/40 đường Cù Chính Lan, phường 13, quận T, thành phố HCM.

Bất động sản tại thửa 19 tờ bản đồ 61, địa chỉ: Xã Thuận Đ, huyện Củ Chi, thành phố HCM.

Quyền khai thác công trình khách sạn T18 tại địa chỉ: Số 3 đường Lê Thị Hồng Gấm, phường 1, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Quyền khai thác công trình khách sạn B Nha Trang tại địa chỉ: Số 02 đường Phan Bội Châu, phường Xương Huân, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B tại Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ.

Nhà xưởng và các công trình phụ trợ khác tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ.

Việc thế chấp tài sản là máy móc, thiết bị tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ cụ thể như sau: Công ty B và Ngân hàng Q có ký Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016 có nội dung Công ty B thế chấp số máy móc, thiết bị (có danh mục kèm theo) cho Ngân hàng Q. Trong phụ lục hợp đồng có nêu số máy móc, thiết bị này đã qua sử dụng để tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Đây chính là địa chỉ nhà xưởng sản xuất của Công ty B. Hợp đồng thế chấp máy móc thiết bị này thì Công ty B không được tham gia ký kết, cũng không được thông báo về hợp đồng thế chấp.

Về nguồn gốc và giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với số máy móc, thiết bị của Công ty B thế chấp cho Ngân hàng Q thì do ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật, đồng thời cũng là người góp vốn lớn nhất của hai công ty là Công ty B và Công ty B. Do vậy trong quá trình nhập khẩu, mua bán máy móc, thiết bị thì có thể có một số máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B, có thể có một số máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B. Tuy nhiên hiện tại Công ty B chưa tìm được tài liệu, hồ sơ để phân định những máy móc, thiết bị nào thuộc sở hữu của Công ty B đã thế chấp cho Ngân hàng Q.

Việc thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ: Lô số 27, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ cụ thể như sau: Công ty B và Ngân hàng Q có ký Hợp đồng thế chấp tài sản số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 có nội dung Công ty B thế chấp toàn bộ nhà điều hành, xưởng sản xuất và các công trình phụ trợ khác cùng toàn bộ các quyền và lợi ích phát sinh tại địa chỉ: Lô số 27, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ cho Ngân hàng Q. Tài sản thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ của Công ty B với Ngân hàng Q. Tuy nhiên Công ty B không tham gia ký kết hợp đồng thế chấp này nên không biết về người đại diện ký hợp đồng cũng như những nội dung cụ thể của hợp đồng.

Về quá trình thực hiện 02 hợp đồng tín dụng của Công ty B như sau: Khoảng nửa cuối năm 2017 Công ty B gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Do vậy Công ty B đã có vi phạm nghĩa vụ trả nợ lãi và nợ gốc theo thỏa thuận của các hợp đồng tín dụng với Ngân hàng Q. Tuy nhiên số liệu cụ thể về các khoản nợ và mức độ xếp hạng nợ xấu thì hiện tại Công ty B chưa xác định được.

Khi Ngân hàng Q thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm là nhà xưởng và máy móc, thiết bị, hàng hóa tại Công ty B thì Công ty B không nhận được bất kỳ thông báo nào về việc thu giữ tài sản bảo đảm. Hiện tại Công ty B đề nghị Tòa án hủy việc thu giữ tài sản bảo đảm theo yêu cầu của Công ty B, buộc Ngân hàng Q trả lại các tài sản đã thu giữ cho Công ty B.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q là ông Đoàn Đ H trình bày:

Công ty B được thành lập và được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố HCM cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu vào ngày 18-7-2002, thay đổi lần cuối cùng lần thứ 11 vào ngày 13-3-2020. Công ty B có các thành viên góp vốn là ông Đinh Tiến S (tỷ lệ góp vốn 95,5%), ông Nguyễn Trung V (tỷ lệ góp vốn 2,25%), ông Phùng Đình K (tỷ lệ góp vốn 2,25%). Người đại diện theo pháp luật là ông Đinh Tiến S.

Công ty B được thành lập và được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh NĐ cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu vào ngày 07-9-2012. Công ty B có các thành viên góp vốn là ông Đinh Tiến S (tỷ lệ góp vốn 55%), bà Nguyễn Thị X (tỷ lệ góp vốn 35%), ông Trần V L (tỷ lệ góp vốn 5%), bà Nguyễn Thị P (tỷ lệ góp vốn 5%). Người đại diện theo pháp luật là ông Đinh Tiến S.

Giữa Công ty B và Ngân hàng Q có các hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng số 143.13.111.1670760.TD.TDH.DN ngày 27-12-2013.

Nội dung cho vay mua ô-tô. Số tiền cho vay là 407.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 186.14.111.1670760.TD.DH.DN ngày 01-7-2014. Nội dung cho vay để thực hiện dự án xây dựng khách sạn Bavico Nha Trang. Tổng số tiền cho vay tối đa là 185.000.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 16102.15.120.1670760.TD ngày 26-8-2015. Nội dung cho vay thực hiện dự án xây dựng khách sạn Bavico Đà Lạt. Tổng số tiền cho vay là 180.000.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 12545.17.120.1670760.TD ngày 07-7-2017. Nội dung cho vay bổ sung vốn cho khách sạn Bavico Nha Trang và khách sạn Bavico Đà Lạt. Tổng số tiền cho vay là 79.555.000.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 6076.16.120.1670760.TD ngày 23-5-2016. Nội dung cấp hạn mức tín dụng là 85.000.000.000 đồng.

Tính đến ngày 16-01-2018, dư nợ của Công ty B tại Ngân hàng Q là: 450.363.000.000 đồng; trong đó dư nợ gốc là 435.459.000.000 đồng, dư nợ lãi là 14.904.000.000 đồng.

Để bảo đảm cho các khoản vay của Công ty B tại Ngân hàng Q có nhiều tài sản thế chấp. Trong đó có các tài sản thế chấp liên quan đến tranh chấp thu giữ tài sản bảo đảm trong vụ án, cụ thể như sau:

Tài sản gắn liền với đất là toàn bộ nhà điều hành, xưởng sản xuất và các công trình phụ trợ khác cùng toàn bộ các quyền và lợi ích phát sinh tại địa chỉ: Lô số 27, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ của Công ty B theo Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 giữa Công ty B và Ngân hàng Q. Hợp đồng thế chấp do ông Bùi Thọ V - chức vụ: Giám đốc điều hành Công ty B được ủy quyền ký theo nội dung của các biên bản họp hội đồng thành viên Công ty B vào các ngày 03-12-2013, 24-12-2013, 02-4-2015, 23-5-2016. Hợp đồng thế chấp được công chứng tại p công chứng số 1 tỉnh NĐ vào ngày 28-3- 2017; đăng ký giao dịch bảo đảm tại V phòng đăng ký đất đai Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh NĐ ngày 28-3-2017.

Các máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ (nhà xưởng sản xuất của Công ty B) theo Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016 giữa Công ty B và Ngân hàng Q. Hợp đồng thế chấp do ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật của Công ty B ký. Đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại thành phố HCM thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm ngày 27-5-2016.

Quá trình thu giữ tài sản bảo đảm của Công ty B và Công ty B được tiến hành cụ thể như sau:

Từ ngày 05-10-2017 Công ty B bắt đầu vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và trả lãi. Kể từ tháng 01 năm 2018 các khoản nợ của Công ty B bị xếp hạng nợ xấu nhóm 3. Ngày 16-01-2018 Ngân hàng Q đã bàn giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q (gọi tắt là M) khoản nợ xấu của Công ty B để xử lý thu hồi nợ theo quy định.

Ngày 17-01-2018, M đã gửi Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 29/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018, Thông báo về việc thu giữ tài sản thế chấp số 159/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018 theo đường bưu chính của Viettel Post có bảo đảm đến Công ty B, địa chỉ: Số 36A đường Núi Thành, phường 13, quận T, thành phố HCM.

Ngày 17-01-2018, M đã gửi Thông báo về việc thu giữ tài sản thế chấp số 163/M-TTXLN ngày 16-01-2018 theo đường bưu chính của Viettel Post có bảo đảm đến Ủy ban nhân dân phường 13, quận T, thành phố HCM.

Ngày 17-01-2018, M đã tiến hành giao trực tiếp cho nhân viên bảo vệ Công ty B các văn bản: Thông báo bàn giao khoản nợ sang M số 31/MB-KD ngày 16-01-2018, Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 29/QĐ-MB- SG ngày 16-01-2018, Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 30/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M- TTXLN ngày 16-01-2018.

Đồng thời với việc giao các văn bản nói trên, M còn niêm yết các thông báo thu giữ tài sản thế chấp là nhà xưởng, máy móc thiết bị tại trụ sở Công ty B. Tuy nhiên tại thời điểm này Công ty B không còn hoạt động nên không lập được biên bản niêm yết tài liệu.

Ngày 19-01-2018, M đã tiến hành niêm yết Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 30/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018, Thông báo về việc thu giữ tài sản thế chấp số 160/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018 tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ.

Ngày 22-01-2018, M đã tiến hành niêm yết Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 30/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018, Thông báo về việc thu giữ tài sản thế chấp số 160/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018 tại Ủy ban nhân dân xã Lộc An, thành phố NĐ, tỉnh NĐ.

Đồng thời với việc niêm yết các quyết định, M còn giao trực tiếp Công văn số 161/M-TTXLN ngày 16-01-2018 cho Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá, Công an xã Mỹ Xá và Công văn số 162/M-TTXLN ngày 16-01-2018 cho Ủy ban nhân dân xã Lộc An, Công an xã Lộc An để thông báo và yêu cầu hỗ trợ trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm.

Ngày 23-01-2018, M đã tiến hành đăng tải thông tin về việc thu giữ tài sản thế chấp là tài sản gắn liền với đất và máy móc, thiết bị trên trang thông tin điện tử của MB/M. Website:  https://www.mbbank.com.vn.Ngoài ra, trước khi thu giữ tài sản bảo đảm, Ngân hàng Q và M đã rất nhiều lần làm việc trực tiếp với ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật của Công ty B và Công ty B về việc yêu cầu giải quyết các khoản nợ, yêu cầu bàn giao tài sản thế chấp để xử lý nợ, thông báo về việc thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ. Tuy nhiên ông Đinh Tiến S không hợp tác, không ký biên bản làm việc. Vì vậy cùng với các tài liệu thông báo việc thu giữ tài sản bảo đảm là máy móc thiết bị, Ngân hàng Q và M còn gửi các thông báo về việc thu giữ tài sản bảo đảm là nhà xưởng, nhà điều hành thuộc sở hữu của Công ty B cùng với các tài liệu gửi theo đường bưu chính của Viettel Post có bảo đảm vào ngày 17-01-2018 đến Công ty B.

Đến ngày 06-02-2018, M đã tiến hành thu giữ các tài sản bảo đảm là tài sản gắn liền với đất của Công ty B theo Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 và máy móc, thiết bị của Công ty B theo Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016. Việc thu giữ tài sản thế chấp có sự chứng kiến của đại diện Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá, đại diện Ủy ban nhân dân xã Lộc An và đại diện Ban quản lý cụm công nghiệp An Xá, thành phố NĐ. Công an xã Mỹ Xá và Công an xã Lộc An cũng cử cán bộ đến làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình M tiến hành thu giữ tài sản thế chấp.

Ngày 20-4-2018 M ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là tài sản gắn liền với đất và máy móc, thiết bị đã thu giữ với Công ty cổ phần bán đấu giá S. Tuy nhiên qua 08 lần bán đấu giá thì vẫn chưa có người mua các tài sản được đưa ra đấu giá.

Hiện tại, M có quan điểm xác định các Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 và Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016 đều đã được các bên tham gia tự nguyện ký kết, được công chứng hợp lệ, đã đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Đồng thời trong các hợp đồng thế chấp này đều có điều khoản cho phép Ngân hàng Q thu giữ, xử lý tài sản thế chấp. Khi tiến hành thu giữ các tài sản bảo đảm, M đã thực hiện đầy đủ thủ tục thông báo theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật của Công ty B và Công ty B biết rõ quá trình tiến hành thu giữ và bán đấu giá tài sản. Vì vậy việc M tiến hành thu giữ các tài sản thế chấp là tài sản gắn liền với đất và máy móc, thiết bị vào ngày 06-02-2017 tại địa chỉ: Lô số 27, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ là đúng quy định của pháp luật.

* Trong quá trình giải quyết vụ án Công ty cổ phần Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu S có công văn số 102/2018/BC-SaoViet ngày 12-9-2019 trình bày:

Ngày 24-4-2018, Công ty cổ phần bán đấu giá S (nay là Công ty cổ phần Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu S), gọi tắt là Công ty S và Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q đã ký 02 hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản số 0804/2018/ĐG-SaoViet và 0904/2018/ĐG-SaoViet để thực hiện bán đấu giá các tài sản là:

Tài sản 1: Tài sản gắn liền với đất là nhà điều hành, xưởng sản xuất và các công trình phụ trợ khác tại địa chỉ: Thửa đất Lô số 27, bản đồ quy hoạch Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ; diện tích 4.307m2; hình thức sử dụng: Riêng 4.307m2, chung 00m2; mục đích sử dụng: Đất khu công nghiệp; thời hạn sử dụng: Đến ngày 03-10-2055; nguồn gốc sử dụng: Nhà nước cho thuê đất trả tiền hàng năm; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 111210 do Ủy ban nhân dân tỉnh NĐ cấp ngày 26-4-2013 cho Công ty B. Đặc điểm cụ thể: Nhà điều hành 5 tầng, kết cấu khung cột bê-tông, diện tích sàn 2.000m2; Xưởng sản xuất, kết cấu khung thép tường gạch mái tôn, diện tích 2.067,7m2. Giá khởi điểm lần 1 là 13.500.000.000 đồng.

Tài sản 2: Máy móc, thiết bị dệt may đã qua sử dụng tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Giá khởi điểm lần 1 là 6.860.000.000 đồng.

Thực hiện các hợp đồng nói trên, Công ty S đã được M cung cấp các tài liệu là các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản, biên bản thu giữ tài sản bảo đảm, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chứng thư thẩm định giá và các tài liệu liên quan khác.

Công ty S đã tiến hành thủ tục bán đấu giá 08 (tám) lần nhưng chưa có người mua được tài sản bán đấu giá. Nguyên nhân theo khách hàng phản ánh là tài sản đấu giá hiện trạng đã cũ, xuống cấp nên giá bán đưa ra cao hơn so với giá thị trường.

Hiện tại Công ty S không có ý kiến đối với tranh chấp thu giữ tài sản bảo đảm được Tòa án giải quyết. Trong trường hợp Tòa án nhân dân thành phố NĐ tuyên bố hủy bỏ việc thu giữ tài sản bảo đảm của Ngân hàng Q thì Công ty S không yêu cầu Tòa án giải quyết việc chấm dứt hợp đồng dịch vụ bán đấu giá và hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông Đinh Tiến S là bà Nguyễn Thị Th trình bày:

Bà là vợ của ông Đinh Tiến S. Đối với các hoạt động thành lập công ty, điều hành sản xuất kinh doanh, thế chấp tài sản của ông Đinh Tiến S đối với các Công ty B và Công ty B thì bà không biết gì. Khi ủy quyền cho bà tham gia tố tụng, ông Đinh Tiến S cũng không yêu cầu bà trình bày về những nội dung này.

Đối với việc Ngân hàng Q và M đã tiến hành thu giữ các tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị của Công ty B và nhà xưởng của Công ty B thì bà không có ý kiến gì. Bà chỉ yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng Q và M trả lại các tài sản không phải là tài sản thế chấp, bao gồm đồ đạc, máy móc và các tài sản khác của Công ty B và khoảng 2.000m2 đất cùng với các tài sản gắn liền với đất mà Công ty B mua của Công ty L nhưng chưa làm thủ tục sang tên.

* Từ nội dung trên, Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 13/2022/KDTM-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ đã quyết định: Căn cứ Điều 342, Điều 348, Điều 349, Điều 350, Điều 351, Điều 352, Điều 388, Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 140, Điều 298, Điều 299, Điều 300, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320, Điều 321, Điều 322, Điều 323, Điều 385, Điều 398 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013; điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23-7-2010 của Chính phủ; Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14;

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B và Ngân hàng thương mại cổ phần Q là vô hiệu.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B về việc yêu cầu tuyên bố hủy bỏ việc thu giữ tài sản bảo đảm của Ngân hàng thương mại cổ phần Q theo các Quyết định số 029/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018 và Quyết định số 030/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B về việc yêu cầu Ngân hàng thương mại cổ phần Q trả lại tài sản.

Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần Q và Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q phải tiến hành kiểm đếm các tài sản là động sản không phải là tài sản bảo đảm bị thu giữ theo Quyết định số 029/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018 và Quyết định số 030/QĐ- MB-SG ngày 16-01-2018, hiện đang có tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ và trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B.

Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần Q và Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q phải tiến hành đo đạc lại tài sản thu giữ là nhà điều hành, nhà xưởng, các công trình phụ trợ thuộc sở hữu của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B theo đúng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số BM 111210 do UBND tỉnh NĐ cấp ngày 26- 4-2013, cập nhật ngày 07-5-2013 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B. Đối với những diện tích đất và tài sản gắn liền với đất nằm ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 111210 do UBND tỉnh NĐ cấp ngày 26-4-2013 thì Ngân hàng thương mại cổ phần Q và Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q phải bàn giao trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B.

Không chấp nhận yêu cầu định giá các tài sản bị thu giữ của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và biện pháp thi hành án của các đương sự.

Ngày 10-10-2022 ông Nguyễn Thành V là người đại diện theo uỷ quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B là nguyên đơn trong vụ án có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm liên quan đến phán quyết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện tuyên việc thu giữ tài sản đảm bảo của MB/ M trái pháp luật, không chấp nhận việc yêu cầu định giá tài sản thu giữ để làm căn cứ bồi thường cho B với lý do một số chi tiết, hồ sơ tài liệu trong vụ án chưa được Toà án cấp sơ thẩm xem xét kỹ và đánh giá khách quan, dẫn đến một số nhận định của Hội đồng xét xử là thiếu căn cứ. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm giải quyết theo trình tự phúc thẩm, xem xét lại toàn bộ hồ sơ, tài liệu và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án để đánh giá khách quan, toàn diện và đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên toà phúc thẩm: Người đại diện theo uỷ quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm. Người đại diện theo uỷ quyền lại của Ngân hàng thương mại cổ phần Q vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cấp sơ thẩm, không chấp nhận lý do kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh NĐ phát biểu quan điểm: Về tố tụng, quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã tuân theo các quy định pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự, quyền lợi của các đương sự được bảo đảm.

Về nội dung: Căn cứ vào việc ký kết các Hợp đồng tín dụng số 6076.16.120.1670760.TD ngày 23-5-2016, Hợp đồng cho vay số 12545.17.120.1670760.TD ngày 07-7-2017, Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017, việc thu giữ tài sản bảo đảm theo các Quyết định số 029/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018 và Quyết định số 030/QĐ-MB- SG ngày 16-01-2018 giữa Ngân hàng quân đội với Công ty B là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Điều 342, Điều 348, Điều 349, Điều 350, Điều 351, Điều 352, Điều 388, Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2005; căn cứ Điều 140, Điều 298, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320, Điều 321, Điều 322, Điều 323, Điều 385, Điều 398 Bộ luật Dân sự năm 2015; căn cứ Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội. Do Công ty B đã vi phạm hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa 2 bên, không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết, không trả nợ gốc, lãi đúng theo thỏa thuận đến hạn nên. Ngày 16-01-2018 Ngân hàng Q đã bàn giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q khoản nợ xấu của Công ty B để xử lý thu hồi nợ theo quy định. Chỉ có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty B về việc buộc Ngân hàng Q trả lại các tài sản khác (ngoài các tài sản liệt kê tại Quyết định số 029/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018 và Quyết định số 030/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018) đã bị quản lý khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm cho Công ty B. Còn lại hai yêu cầu của Công ty B đề nghị Tòa án hủy bỏ việc thu giữ tài sản bảo đảm theo các Quyết định số 029/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018 và Quyết định số 030/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018 và yêu cầu Tòa án ra quyết định định giá tài sản bị thu giữ tại thời điểm hiện tại là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 BLTTDS năm 2015 không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thành V là người đại diện theo uỷ quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về án phí đương sự phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thành V là người đại diện theo uỷ quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B làm trong thời hạn luật định phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 272; khoản 1 Điều 273; Điều 276 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết.

[2] Về tố tụng: Ông Đinh Tiến S đã bị bắt tạm giam vào ngày 03-12-2019 và đã bị Tòa án quân sự tuyên phạt mức án 18 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hiện nay đang đi chấp hành án nên không thể đến tham gia phiên toà được, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị P, ông Trần V L, bà Nguyễn Thị X, người đại diện theo uỷ quyền của Công ty TNHH quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng thương mại cổ phần Q ông Nguyễn Mạnh C, ông Đoàn Đ H; những người đại diện theo ủy quyền của Công ty B là ông Nguyễn Cường L, bà Nguyễn Hồng Hà T, ông Nguyễn Trung V, ông Phùng Đình K; người đại diện của Công ty S ông Nguyễn Đình H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ Khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ.

[3] Xét đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thành V liên quan đến phán quyết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện tuyên việc thu giữ tài sản đảm bảo của MB/ M trái pháp luật thấy rằng: Về quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định Công ty B có vay tiền Ngân hàng Q theo 04 hợp đồng tín dụng; tính đến thời điểm Ngân hàng Q ra các quyết định thu giữ tài sản bảo đảm là ngày 16-01-2018, dư nợ của Công ty B tại Ngân hàng Q là:

450.363.000.000 đồng; trong đó dư nợ gốc là 435.459.000.000 đồng, dư nợ lãi là 14.904.000.000 đồng; xếp hạng nợ xấu nhóm 3 theo phân loại của điểm a Điều 3 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Như vậy, Ngân hàng Q có quyền thực hiện thu giữ các tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu của Công ty B theo quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14.

[4] Xét về các điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản: Căn cứ vào Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3- 2017 là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện. Tại mục 5.1.1 Điều 5 của hợp đồng quy định “MB được xử lý tài sản thế chấp khi thuộc một trong các trường hợp sau:... Nghĩa vụ được bảo đảm theo Hợp đồng này không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ khi đến hạn trả nợ hoặc trường hợp phải trả nợ trước hạn theo quy định tại các Hợp đồng cấp tín dụng.”; tại mục 6.1.3 Điều 6 của hợp đồng quy định “MB có các quyền sau:... Thu giữ, xử lý tài sản thế chấp, các lợi ích phát sinh từ tài sản thế chấp và yêu cầu Bên thế chấp giao tài sản thế chấp trong các trường hợp đã được thỏa thuận tại Hợp đồng này.”. Đồng thời, tài sản thế chấp theo hợp đồng là nhà điều hành 5 tầng, kết cấu khung cột bê-tông, diện tích sàn 2.000m2, xưởng sản xuất, kết cấu khung thép tường gạch mái tôn, diện tích 2.067,7m2 và các công trình phụ trợ khác tại địa chỉ: Lô số 27, bản đồ quy hoạch Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại V phòng đăng ký đất đai Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh NĐ vào ngày 28-3-2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định đã có đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14 để Ngân hàng Q tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản theo Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017.

[5] Xét về điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị: Ngày 26-5- 2016 Công ty B và Ngân hàng Q ký Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ. Tài sản thế chấp là các máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B (chi tiết theo phụ lục kèm theo) tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Nghĩa vụ được bảo đảm là toàn bộ các nghĩa vụ tài chính của Công ty B với Ngân hàng Q theo các hợp đồng tín dụng được xác lập trước, trong và sau thời điểm ký hợp đồng thế chấp này. Ngoài ra hợp đồng thế chấp còn có các điều khoản khác theo quy định của pháp luật. Hợp đồng thế chấp do người đại diện theo pháp luật của Công ty B là ông Đinh Tiến S ký tên, đóng dấu; đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại thành phố HCM thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm vào ngày 27-5-2016. Xét thấy Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016 được lập thành văn bản, có hình thức và nội dung phù hợp quy định của pháp luật nên căn cứ quy định tại các Điều 342, Điều 348, Điều 349, Điều 350, Điều 351, Điều 352, Điều 388, Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2005, Hội đồng xét xử sẽ xác định Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016 là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện. Tại mục 5.1.1 Điều 5 của hợp đồng quy định “MB được xử lý tài sản thế chấp khi thuộc một trong các trường hợp sau:... Nghĩa vụ được bảo đảm theo Hợp đồng này không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ khi đến hạn trả nợ hoặc trường hợp phải trả nợ trước hạn theo quy định tại các Hợp đồng cấp tín dụng.”; tại mục 6.1.3 Điều 6 của hợp đồng quy định “MB có các quyền sau:... Thu giữ, xử lý tài sản thế chấp, các lợi ích phát sinh từ tài sản thế chấp và yêu cầu Bên thế chấp giao tài sản thế chấp trong các trường hợp đã được thỏa thuận tại Hợp đồng này.”. Đồng thời, tài sản thế chấp theo hợp đồng là các máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B (chi tiết theo phụ lục kèm theo) tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại thành phố HCM thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm vào ngày 27-5-2016. Vì vậy Hội đồng xét xử xác định đã có đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14 để Ngân hàng Q tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị theo Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016.

[6] Xét về thực hiện công khai thông tin trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa thì có đủ cơ sở xác định trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm vào ngày 06-02-2018, Ngân hàng Q và M đã thực hiện công khai thông tin như sau: Thực hiện công khai thông tin thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản: Ngày 23-01-2018, M đã tiến hành đăng tải thông tin về việc thu giữ tài sản thế chấp là tài sản gắn liền với đất và máy móc, thiết bị trên trang thông tin điện tử của MB/M. Website: https://www.mbbank.com.vn. Tài liệu đính kèm là Thông báo số 160/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018 về việc thu giữ tài sản thế chấp là bất động sản. Như vậy đã thực hiện đúng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Ngày 19-01-2018, M đã tiến hành niêm yết Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 30/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018, Thông báo về việc thu giữ tài sản thế chấp số 160/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018 tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Ngày 22-01-2018, M đã tiến hành niêm yết Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 30/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018, Thông báo về việc thu giữ tài sản thế chấp số 160/TB-M-TTXLN ngày 16- 01-2018 tại Ủy ban nhân dân xã Lộc An, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Như vậy đã thực hiện đúng quy định tại điểm c khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Đồng thời với việc niêm yết các quyết định, M còn giao trực tiếp Công văn số 161/M-TTXLN ngày 16-01-2018 cho Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá, Công an xã Mỹ Xá và Công văn số 162/M- TTXLN ngày 16-01-2018 cho Ủy ban nhân dân xã Lộc An, Công an xã Lộc An để thông báo và yêu cầu hỗ trợ trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm. Trên thực tế, khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, đại diện Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá là ông Hoàng Khắc O và đại diện Ủy ban nhân dân xã Lộc An là ông Phạm Trọng L đã chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm; đại diện Công an địa phương đã có mặt để giữ gìn an ninh trật tự trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm nên Hội đồng xét xử thấy rằng có cơ sở để chấp nhận lời trình bày của đại diện M về việc đã giao trực tiếp các công văn thông báo về việc thu giữ tài sản bảo đảm cho Ủy ban nhân dân cấp xã và Công an cấp xã nơi có tài sản bảo đảm. Như vậy đã thực hiện đúng quy định tại điểm b khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Ngày 17-01-2018, M đã tiến hành giao trực tiếp cho nhân viên bảo vệ Công ty B là ông Nguyễn Đ Cường các văn bản: Thông báo bàn giao khoản nợ sang M số 31/MB-KD ngày 16-01-2018, Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 29/QĐ-MB- SG ngày 16-01-2018, Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 30/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M- TTXLN ngày 16-01-2018. Như vậy đã thực hiện đúng quy định tại điểm d khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử sẽ xác định trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản vào ngày 06-02-2018, Ngân hàng Q và M đã thực hiện đầy đủ việc công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14.

[7] Xét về thực hiện công khai thông tin thu giữ tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị: Ngày 23-01-2018, M đã tiến hành đăng tải thông tin về việc thu giữ tài sản thế chấp là tài sản gắn liền với đất và máy móc, thiết bị trên trang thông tin điện tử của MB/M. Website: https://www.mbbank.com.vn. Tài liệu đính kèm là Thông báo số 159/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018 về việc thu giữ tài sản thế chấp là máy móc, thiết bị. Như vậy đã thực hiện đúng quy định tại điểm a khoản 4 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Ngày 17-01-2018, M đã gửi Thông báo số 163/M-TTXLN ngày 16-01- 2018 về việc thu giữ tài sản thế chấp là máy móc, thiết bị theo đường bưu chính của Viettel Post có bảo đảm đến Ủy ban nhân dân phường 13, quận T, thành phố HCM là nơi Công ty B đăng ký trụ sở. Như vậy đã thực hiện đúng quy định tại điểm a khoản 4 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Việc Ủy ban nhân dân phường 13 không nhận được thông báo không phải lỗi của M. Ngày 17-01-2018, M đã gửi Quyết định thu giữ tài sản bảo đảm số 29/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018, Thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ số 158/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018, Thông báo về việc thu giữ tài sản thế chấp số 159/TB-M-TTXLN ngày 16-01-2018 theo đường bưu chính của Viettel Post có bảo đảm đến Công ty B, địa chỉ: Số 36A đường Núi Thành, phường 13, quận T, thành phố HCM. Như vậy đã thực hiện đúng quy định tại điểm b khoản 4 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14. Việc Công ty B không nhận được thông báo không phải lỗi của M. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử sẽ xác định trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị vào ngày 06- 02-2018, Ngân hàng Q và M đã thực hiện đầy đủ việc công khai thông tin theo quy định tại khoản 4 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14.

[8] Xét đối với việc thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa thì có đủ cơ sở xác định: Vào 10 giờ 30 phút ngày 06-02-2018, M đã tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản theo Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28-3-2017. Việc thu giữ tài sản bảo đảm vắng mặt đại diện của Công ty B, có sự tham gia chứng kiến của đại diện Ủy ban nhân dân xã Lộc An (nơi Công ty B đăng ký trụ sở), đại diện Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá (nơi có tài sản bảo đảm) và đại diện Ban quản lý Cụm công nghiệp An Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Căn cứ Biên bản thu giữ tài sản bảo đảm ngày 06-02-2018, tài sản bảo đảm bị thu giữ là: “Nhà điều hành, xưởng sản xuất và các công trình phụ trợ khác cùng toàn bộ các quyền và lợi ích phát sinh tại địa chỉ thửa đất số: Lô số 27 - bản đồ quy hoạch Cụm công nghiệp An Xá; có tổng diện tích sử dụng 4.307m2, trong đó: diện tích sử dụng riêng: 4.307m2, diện tích sử dụng chung: 0m2; có địa chỉ tại cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BM 111210, số vào sổ cấp GCN: CT 00886 do UBND tỉnh NĐ cấp ngày 26/4/2013, cập nhật giấy chứng nhận ngày 07/5/2013 cho Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ B.”. Biên bản thu giữ tài sản bảo đảm đã được đại diện M ký và những đại diện cho chính quyền địa phương, đại diện Cụm công nghiệp An Xá ký, đóng dấu. Như vậy tài sản bảo đảm bị thu giữ là đúng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số BM 111210 do UBND tỉnh NĐ cấp ngày 26-4-2013, cập nhật ngày 07-5-2013 cho Công ty B; đúng với tài sản thế chấp được mô tả tại Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 2652.17.120.1670760.BĐ ngày 28- 3-2017; đúng với tài sản đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại V phòng đăng ký đất đai Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh NĐ vào ngày 28-3-2017.

[9] Xét đối với việc thu giữ tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa thì có đủ cơ sở xác định: Vào 10 giờ 30 phút ngày 06-02-2018, M đã tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị theo Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016. Việc thu giữ tài sản bảo đảm vắng mặt đại diện của Công ty B, vắng mặt đại diện của Công ty B, có sự tham gia chứng kiến của đại diện Ủy ban nhân dân xã Lộc An (nơi Công ty B là người quản lý tài sản đăng ký trụ sở), đại diện Ủy ban nhân dân xã Mỹ Xá (nơi có tài sản bảo đảm) và đại diện Ban quản lý Cụm công nghiệp An Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Về việc xác định địa chỉ có tài sản bảo đảm, Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016 và Phụ lục kèm theo hợp đồng có ghi danh mục máy móc, thiết bị đã qua sử dụng tại địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Đây chính là địa chỉ của nhà điều hành và xưởng sản xuất của Công ty B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số BM 111210 do UBND tỉnh NĐ cấp ngày 26-4-2013, cập nhật ngày 07-5-2013 cho Công ty B. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện của Công ty B là ông Nguyễn Thành V và người đại diện của Công ty B là ông Nguyễn Cường L đều có lời khai xác nhận do ông Đinh Tiến S là người đại diện theo pháp luật, đồng thời cũng là người góp vốn lớn nhất của Công ty B và Công ty B. Do vậy trong quá trình nhập khẩu, mua bán máy móc, thiết bị thì có thể có một số máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B, có thể có một số máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B đều để tại nhà máy của Công ty B. Tại Chứng thư thẩm định giá số Vc 15/07/189/ĐS ngày 18-7-2015 và Chứng thư thẩm định giá số Vc 17/07/1174/ĐS ngày 12-7-2017 cũng xác định các máy móc, thiết bị thế chấp của Công ty B đang để tại Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Như vậy việc M xác định các máy móc, thiết bị cần thu giữ hiện đang để tại nhà điều hành và xưởng sản xuất của Công ty B, địa chỉ: Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ là có cơ sở. Căn cứ Biên bản thu giữ tài sản bảo đảm ngày 06-02-2018, tài sản bảo đảm bị thu giữ là: “Máy móc, thiết bị xưởng nhuộm - gồm 18 hệ thống; máy móc, thiết bị xưởng dệt - gồm 09 hệ thống, trong đó bị thiếu 18 máy dệt thổi khí Delta và 24 máy dệt thổi khí Tsudacoma; máy móc thiết bị xưởng may - gồm 28 hệ thống”. Biên bản thu giữ tài sản bảo đảm đã được đại diện M ký và những đại diện cho chính quyền địa phương, đại diện Cụm công nghiệp An Xá ký, đóng dấu. Như vậy tài sản bảo đảm bị thu giữ là đúng với tài sản thế chấp được mô tả tại phụ lục của Hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị số 6776.16.120.1670760.BĐ ngày 26-5-2016; đúng với hồ sơ máy móc, thiết bị của các hợp đồng mua bán máy móc của Công ty B; đúng với tài sản đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại thành phố HCM thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm vào ngày 27-5-2016.

[10] Xét đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty B về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy bỏ việc thu giữ tài sản bảo đảm theo các Quyết định số 029/QĐ- MB-SG ngày 16-01-2018 và Quyết định số 030/QĐ-MB-SG ngày 16-01-2018: Căn cứ nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng có đủ cơ sở để xác định việc Ngân hàng Q và M đã ra quyết định thu giữ tài sản bảo đảm, thực hiện việc công khai thông tin về việc thu giữ tài sản bảo đảm và tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm đối với các tài sản là nhà điều hành, nhà xưởng, các công trình phụ trợ thuộc sở hữu của Công ty B và toàn bộ máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của Công ty B tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ là hợp pháp. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty B cũng không làm đơn yêu cầu độc lập để yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng Q phải trả lại các tài sản bảo đảm là máy móc, thiết bị đã bị thu giữ. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của Công ty B.

[11] Xét đối với việc Ngân hàng Q quản lý các tài sản khác khi thu giữ tài sản bảo đảm: Căn cứ lời khai của đại diện Công ty B, lời khai của đại diện M tại phiên tòa và kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14-10- 2019 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh NĐ, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định: Cùng với việc thu giữ nhà điều hành, nhà xưởng và các công trình phụ trợ của Công ty B; các máy móc, thiết bị của Công ty B thì M đã tiến hành niêm phong toàn bộ nhà điều hành, nhà xưởng của Công ty B, trong đó có cả các tài sản không thuộc phạm vi danh sách tài sản bảo đảm bị thu giữ. Cụ thể là các máy móc, thiết bị khác của Công ty B, các tài sản lưu động là nguyên liệu may mặc, vải và sản phẩm đã hoàn thành, một số tài sản khác như bàn ghế, đồ đạc và 06 container để tại sân Công ty B. Mặc dù đại diện Ngân hàng Q và đại diện M có lời khai trình bày không tiến hành thu giữ các tài sản này, trong biên bản thu giữ tài sản bảo đảm, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản cũng không đề cập đến các tài sản này, tuy nhiên Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc M không tiến hành kiểm đếm, liệt kê các tài sản khác hiện có tại Công ty B khi thu giữ tài sản bảo đảm và không thông báo cho Công ty B nhận lại các tài sản này là làm ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của Công ty B. Vì vậy sẽ buộc Ngân hàng Q và M phải tiến hành kiểm đếm các tài sản không phải là tài sản bảo đảm bị thu giữ, hiện đang có tại địa chỉ: Lô số 27, đường N2, Cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố NĐ, tỉnh NĐ và trả lại cho Công ty B. Tại văn bản kiến nghị ghi ngày 19-9-2022, ông Đinh Tiến S còn trình bày: Hiện tại phần nhà xưởng của Công ty B còn bao gồm cả diện tích đất 2.000m2 mà Công ty B đã mua của Công ty L. Tại phiên tòa sơ thẩm bà Nguyễn Thị Th cũng trình bày nội dung này. Mặc dù các đương sự chưa giao nộp được tài liệu, chứng cứ chứng minh nhưng Hội đồng xét xử cũng thấy cần thiết phải giao cho Ngân hàng Q và M tiến hành đo đạc lại tài sản thu giữ là nhà điều hành, nhà xưởng, các công trình phụ trợ thuộc sở hữu của Công ty B trên diện tích đất 4.307m2 theo đúng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số BM 111210 do UBND tỉnh NĐ cấp ngày 26-4- 2013, cập nhật ngày 07-5-2013 cho Công ty B. Đối với những diện tích đất và các tài sản gắn liền với đất nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 111210 thì Ngân hàng Q và M phải bàn giao trả lại cho Công ty B.

[12] Xét đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thành V không chấp nhận việc yêu cầu định giá tài sản thu giữ để làm căn cứ bồi thường cho B thấy rằng: Đối với các tài sản bảo đảm đã bị Ngân hàng Q và M tiến hành thu giữ hợp pháp thì sẽ được xử lý theo quy định tại Điều 5 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14, vì vậy Hội đồng xét xử sẽ không chấp nhận yêu cầu của Công ty B về việc định giá các tài sản này. Đối với các tài sản khác đã bị Ngân hàng Q quản lý khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm theo nhận định nêu trên thì thấy rằng trong phạm vi các tranh chấp được giải quyết của vụ án không có yêu cầu giải quyết đòi bồi thường thiệt hại. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ không chấp nhận yêu cầu của Công ty B về việc định giá các tài sản này. Công ty B có quyền yêu cầu định giá tài sản khi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại thành vụ án khác.

[13] Qua những phân tích nêu trên đã cho thấy những kết luận trong bản án sơ thẩm là hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự được pháp luật bảo vệ không bị xâm hại. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm Người đại diện theo uỷ quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B cũng không đưa ra được các chứng cứ và lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy yêu cầu kháng cáo của Công ty B không được chấp nhận cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[14] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do kháng cáo của Công ty B không được chấp nhận nên cần buộc Công ty B phải nộp án phí dân sự phúc thẩm. Số tiền Công ty B đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm 2.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0005560 ngày 14-10-2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố NĐ, tỉnh NĐ sẽ được đối trừ vào số tiền án phí phúc thẩm Công ty B phải nộp. Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B đã nộp xong án phí phúc thẩm.

[15] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Căn cứ Điều 342, Điều 348, Điều 349, Điều 350, Điều 351, Điều 352, Điều 388, Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 140, Điều 298, Điều 299, Điều 300, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320, Điều 321, Điều 322, Điều 323, Điều 385, Điều 398 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013; điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23-7-2010 của Chính phủ; Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 của Quốc hội khóa 14; khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 148, Điều 244, khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Giữ nguyên Quyết định bản án sơ thẩm số 13/2022/KDTM-ST ngày 29-9- 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định.

2. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B phải nộp 2.000.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm đã nộp là 2.000.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0005560 ngày 14-10- 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố NĐ, tỉnh NĐ. Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Dịch vụ B đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thu giữ tài sản bảo đảm số 04/2023/KDTM-PT

Số hiệu:04/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 14/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về