TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 89/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 17/8/2021, tại Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 281/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 14/7/2021 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T - Sinh năm 1968 (Có mặt) Địa chỉ: Đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
* Bị đơn: Bà Phạm Thị H - Sinh năm 1978 (Có mặt) Địa chỉ: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày: Tại bản án số 05/2021/HNGĐ-PT ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết cho ly hôn giữa ông T và bà Phạm Thị H; Về con chung: Giao 02 con chung cháu Nguyễn Thảo N - Sinh ngày 16/12/2003; Nguyễn Thảo M - Sinh ngày 02/8/2007 cho bà Phạm Thị H là người được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và tuyên về quyền thăm nom chăm sóc con chung sau khi ly hôn; Về cấp dưỡng nuôi con: ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/01 cháu/01 tháng; Ngoài ra quyết định của bản án còn giải quyết về án phí.
Tuy nhiên, từ sau khi bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có hiệu lực pháp luật thì mỗi khi ông T tới thăm con và cấp dưỡng cho con, bà H gây cản trở khóa cửa không cho thăm con, vào ngày 07/02/2021 khi ông T đến thăm con bà H còn lấy dao đâm vào tay trái của ông T, đến ngày 13/02/2021 (mùng 02 tết) ông T tới thăm con thì bà H không cho vào còn lấy vòi nước xịt làm ông ướt hết người. Sau đó ông T có đến trường trung học cơ sở L thăm con và đưa tiền cấp dưỡng nuôi con được 02 lần với tổng số tiền là 5.000.000 đồng, nhưng đến nay nhà trường không cho thăm con ở trường nữa nên ông không thể đến thăm các con của mình nữa. Vào khoảng 15 giờ ngày 09/6/2021 khi ông T đến thăm con thì bà H khóa cửa không cho ông vào thăm nên ông T đã báo với đại diện Tổ dân phố nơi bà H cư trú đến thì bà H mới mở cửa nên ông T yêu cầu đại diện tổ dân phố chứng kiến và xác nhận sự việc.
Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông T cùng các con thì ông T đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, giao 02 con chung là cháu Nguyễn Thảo N - Sinh ngày 16/12/2003; Nguyễn Thảo M - Sinh ngày 02/8/2007 cho ông T được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Ông T không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.
*Bị đơn bà Phạm Thị H trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn T trước đây là vợ chồng hợp pháp và đã ly hôn theo quyết định của bản án số 05/2021/HNGĐ- PT ngày 25/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk theo đó Tòa án giải quyết cho bà và ông T ly hôn; Về con chung: giao 02 con chung là Nguyễn Thảo N - Sinh ngày 16/12/2003 và Nguyễn Thảo M - Sinh ngày 02/8/2007 cho bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và quyền thăm nom chăm sóc con chung theo quy định đối với ông T; ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/01 cháu/01 tháng. Sau khi bản án trên có hiệu lực thì bản thân bà H thấy việc bà H chăm sóc, nuôi các con rất tốt, các cháu đều phát triển rất tốt mặc dù ông T không có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, mà còn nhiều lần đến nhà riêng của mẹ con bà H để gây sự và đánh bà H và các con, giữa hai bên thường xuyên xảy ra cãi nhau mỗi khi ông T đến. Do ông T nhiều lần đến nhà và đưa ra lý do đến thăm con và cấp dưỡng cho con để gây sự dẫn đến xô xát với mẹ con bà H, ảnh hưởng đến cuộc sống của mẹ con bà nên sau đó bà H đã làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án để yêu cầu ông T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật thì ông T mới thực hiện việc cấp dưỡng.
Nay ông T yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và yêu cầu bà H giao 02 con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng và ông T không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con thì ý kiến của bà H không đồng ý vì bản thân bà H vẫn đang chăm sóc tốt cho các con, hơn nữa các cháu đều là con gái đang trong độ tuổi phát triển tâm sinh lý cần sự chăm sóc dạy bảo của người mẹ, nếu nguyện vọng của các cháu đều muốn ở với mẹ nên đề nghị Tòa án giải quyết không chấp nhận yêu cầu của ông T.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thẩm phán chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử cũng như phía nguyên đơn, bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn đối với 02 cháu là Nguyễn Thảo N - Sinh ngày 16/12/2003 và Nguyễn Thảo M - Sinh ngày 02/8/2007.
- Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên nguyên đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của nguyên đơn, bị đơn, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về quan hệ pháp luật: Đây là tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm i khoản 2 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tại bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 05/2021/HNGĐ-PT ngày 25/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định cho bà Phạm Thị H được ly hôn ông Nguyễn Văn T và giao 02 con chung là cháu Nguyễn Thảo N - Sinh ngày 16/12/2003 và Nguyễn Thảo M - Sinh ngày 02/8/2007 cho bà Phạm Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi); Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/01 tháng/01 cháu.
Ông Nguyễn Văn T khởi kiện vì cho rằng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật bà H có hành vi cản trở không cho ông T thăm con và cấp dưỡng nuôi con, mặc dù quyết định của Tòa án ông T được quyền thăm con bất cứ lúc nào và không được cản trở. Về phía bà Phạm Thị H cho rằng việc ông T trình bày là bà H cản trở không cho thăm con là không đúng, bà H vẫn tạo điều kiện cho ông T đến thăm nhưng do ông T nhiều lần đến có những lời lẽ xúc phạm và đánh bà H cùng các con, không thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định nên sau đó bà H có khóa cửa. Bà H xác định hiện nay các con chung đang được bà H nuôi dưỡng và phát triển tốt.
Quá trình xác minh tại địa phương nơi bà Phạm Thị H cư trú, thì địa phương cho biết cả hai con chung của ông T và bà H hiện đang sinh sống cùng với bà H tại đường N, phường T, thành phố B. Trong thời gian mẹ con bà H sinh sống thì ông Nguyễn Văn T nhiều lần đến thăm con. Tuy nhiên, khi ông T đến thì giữa hai bên nhiều lần xảy ra cãi vã to tiếng, nên sau đó bà H và các con không mở cửa cho ông T vào nhà nữa nên ông T có yêu cầu địa phương đến chứng kiến và xác nhận sự việc vào ngày 09/6/2021.
Hội đồng xét xử thấy, về điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng các con thì ông T, bà H đều đảm bảo điều kiện nuôi con. Tuy nhiên, cả hai con chung hiện đang do bà H trực tiếp nuôi dưỡng, các cháu đều là con gái đang trong quá trình phát triển về mặt tâm sinh lý và nguyện vọng của các con là được sống cùng bà H, cuộc sống của các cháu hiện đang ổn định, việc ông T cho rằng bà H không cho ông T thăm con là không có cơ sở chấp nhận. Do đó không thể chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn của ông Nguyễn Văn T đối với 02 con chung là Nguyễn Thảo N - Sinh ngày 16/12/2003 và Nguyễn Thảo M - Sinh ngày 02/8/2007.
- Về án phí: Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên nguyên đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà ông T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 60AA/2021/0003844 ngày 13/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm i khoản 2 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn, đối với 02 con chung là Nguyễn Thảo N - Sinh ngày 16/12/2003 và Nguyễn Thảo M - Sinh ngày 02/8/2007.
- Về án phí: Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà ông T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 60AA/2021/0003844 ngày 13/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn số 89/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 89/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về