Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn số 17/2022/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-PT NGÀY 22/11/2022 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN

Ngày 22 tháng 11 năm 2022 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 13/2022/TLPT-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 59/2022/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 13/2022/QĐXX-PT ngày 31 tháng 10 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị Hồng T, sinh năm1991(có mặt) Nơi cư trú: Tổ 1, phường Đ.Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm1985 (có mặt) Nơi cư trú: Xóm L.M, xã T.Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

3. Người kháng cáo: Anh Nguyễn Văn H là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung bản án sơ thẩm nguyên đơn chị Dương Thị Hồng T trình bày: Chị Dương Thị Hồng T và anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên giải quyết ly hôn, tại Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 66/2020/HNGĐ-ST ngày 22/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, đã quyết định về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 12/8/2010 và cháu Nguyễn Quỳnh L, sinh ngày 25/12/2014 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Chị T được quyền đi lại thăm nom con chung. Tuy nhiên, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, cháu N và cháu L đều ở với anh H, nhưng mỗi lần chị T đến thăm nom thì anh H đều có hành vi đánh đập các cháu, khiến chị T không về thăm con được. Nay, chị T đã có công việc, thu nhập ổn định và có chỗ ở riêng, nguyện vọng của cháu Nguyễn Quỳnh L xin được ở với mẹ, do vậy chị đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố T giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, giao cháu Nguyễn Quỳnh L cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, không yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con chung.

Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, quá trình giải quyết vụ án, chị Dương Thị Hồng T đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ gồm:

- Bản sao Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2020/HNGĐ-ST ngày 22/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T.

- Bảng kê thanh toán tiền lương của công ty TNHH Glonics Việt Nam đối với chị Dương Thị Hồng T tháng 6, 7, 8 năm 2021, với mức thu nhập từ 5,1 đến 6,9 triệu đồng/tháng.

- Đơn trình bày nguyện vọng của cháu Nguyễn Quỳnh L - Đơn xin xác nhận đề ngày 21/10/2021 của chị Dương Thị Hồng T, về việc chị T được mẹ đẻ là Nguyễn Thị M cho đất để làm nhà riêng (có xác nhận của Tổ trưởng tổ 7, phường T.L, thành phố T).

- Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của chị Dương Thị Hồng T với anh Ma Đức N1 và đơn xin xác nhận ngày 18/5/2022 của chị Dương Thị Hồng T, về việc chị T chuyển khẩu về sống với anh N1 tại dân phố 1, phường Đ.Q, thành phố T (có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố).

- Hợp đồng lao động ngày 16/4/2022 giữa chị Nguyễn Thị Hồng H1 và chị Dương Thị Hồng T (Nội dung: Chị T làm công việc bán hoa cho chị H1 tại chợ bờ đê Sông Cầu, với mức lương thu nhập là 250.000đ/ngày; thời gian làm việc từ 07 giờ 15 phút đến 17 giờ).

- Hợp đồng cho thuê nhà ngày 06/3/2022 giữa chị Dương Thị Hồng T với anh Bùi Văn L1 và chị Trần Thị Tr (Nội dung: Chị T cho vợ chồng anh L1, chị Tr thuê căn nhà, với giá thuê là 1.800.000đ/tháng).

- Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 10/5/2022 (có chứng thực tại UBND phường T.L, thành phố T) giữa bà Nguyễn Thị M và chị Dương Thị Hồng T (Nôi dung: Bà M tặng cho chị T thửa đất số 325, tờ bản đồ số 4, diện tích 167,6m2, tại phương T.L, thành phố T) Ngoài ra, ngày 10/8/2022 chị Dương Thị Hồng T còn cung cấp cho Tòa án 01 USB nhãn hiệu Kinston, 1,6 GB, kèm theo bản dịch nội dung ghi âm cuộc điện thoại trao đổi giữa chị Dương Thị Hồng T với cháu Nguyễn Quỳnh L, giữa chị Dương Thị Hồng T với anh Nguyễn Văn H.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H trình bày: Trong thời kỳ hôn nhân anh H và chị Dương Thị Hồng T đã có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 12/8/2010 và cháu Nguyễn Quỳnh L, sinh ngày 25/12/2014. Năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố T giải quyết ly hôn giữa chị Dương Thị Hồng T và anh Nguyễn Văn H đã giao cho anh H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Kể từ đó đến nay việc chăm sóc, nuôi dạy con chung đều do anh H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chị T không hề đi lại thăm nom, chăm sóc con chung và không cấp dưỡng nuôi con cho anh H. Nay chị T làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, giao cháu Nguyễn Quỳnh L cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng thì quan điểm của anh H là không muốn chia tách hai con ra, một là anh H nuôi cả hai con hoặc chị T nuôi cả hai con. Hiện nay chị T đã đi kết hôn với người khác và đã có con riêng. Do vậy, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cháu L về ở với chị T và bố dượng sẽ không đảm bảo cho sự phát triển và tâm sinh lý của con chung; trường hợp chị T chứng minh được có nhà riêng và có thu nhập trong 5 tháng, với lương cơ bản từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2022, thì anh H mới có ý kiến sau.

Người làm chứng trình bày: Bà Nguyễn Thị M, anh Nguyễn Văn L1 và chị Nguyễn Thị Hồng H1 xác định: Bà M có tặng cho chị Dương Thị Hồng T một mảnh đất thuộc tổ 7, phường T.L, thành phố T và đã làm thủ tục tặng cho tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Anh Nguyễn Văn L1 đã thuê của chị Dương Thị Hồng T một căn nhà với giá thuê là 1.800.000đ/tháng; chị Nguyễn Thị Hồng H1 có ký hợp đồng lạo động với chị Dương Thị Hồng T làm công việc bán hoa, cây cảnh từ tháng 4 năm 2022 đến nay, tiền công chị H1 trả cho chị T là 250.000đ/ngày; đồng thời bà M, anh L1 và chị H1 có đơn xin xét xử vắng mặt.

Với nội dung trên, tại bản án số 59/2022/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên đã xét xử và quyết định:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị Hồng T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Giao con chung là cháu Nguyễn Quỳnh L, sinh ngày 25/12/2014 cho chị Dương Thị Hồng T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi cháu Nguyễn Quỳnh L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Anh Nguyễn Văn H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

2. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Dương Thị Hồng T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn H.

Khi xét thấy cần thiết hoặc do điều kiện sống có sự thay đổi, vợ chồng có thỏa thuận khác phù hợp với quy định pháp luật và vì lợi ích của con chung, các bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu, thay đổi mức cấp dưỡng hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/8/2022 bị đơn anh Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo, không đồng ý với quyết định của Tòa án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án phúc thẩm bác yêu cầu xin thay đổi nuôi con của chị T.

Tại phiên tòa phúc thẩm, anh H giữ nguyên nội dung kháng cáo. Anh H cho rằng sau khi giải quyết ly hôn với chị T, anh trực tiếp nuôi con chung và đảm bảo mọi điều kiện cho hai con, chị T đã lấy chồng mới nhưng chồng mới của chị T đã có hai con riêng, chồng của chị T hiện nay bị mắc bệnh nặng, chị T phải chăm sóc chồng và con riêng của chồng nên không thể có điều kiện để chăm sóc cháu L con chung của anh và chị T. Anh H không nhất trí để chị T nuôi con chung. Tại phiên tòa chị T bổ sung đơn đề nghị của anh Ma Đức N1 là chồng của chị T với nội dung cam đoan đảm bảo việc nuôi dưỡng và học tập của cháu Nguyễn Quỳnh L được tốt nhất và đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Chị T xác định, nếu được Tòa án chấp nhận giao cháu L cho chị trực tiếp nuôi dưỡng thì chị sẽ làm thủ tục chuyển trường cho cháu L đến học tại trường thuộc phường Đ.Q gần nơi ở của vợ chồng chị, thuận lợi cho việc đi học của cháu, chị T không nhất trí kháng cáo của anh H.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát phát biểu sự tuân theo pháp luật của thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Văn H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1.] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Văn H làm trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2.] Về nội dung: Xét kháng cáo của anh H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Anh H và chị T trong quá trình chung sống có hai con chung là cháu Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 12/8/2010 và cháu Nguyễn Quỳnh L, sinh ngày 25/12/2014. Khi anh H và chị T giải quyết ly hôn, Tại bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 66/2020/HNGĐ-ST ngày 22/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, đã quyết định về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 12/8/2010 và cháu Nguyễn Quỳnh L, sinh ngày 25/12/2014 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Chị T khởi kiện đề nghị thay đổi nuôi con và đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Quỳnh L, sinh ngày 25/12/2014. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào nguyện vọng của cháu L xin được ở với với chị T và tiến hành xác minh về điều kiện chăm sóc con chung của chị T và có căn cứ xác định chị T có đủ điều kiện để nuôi con chung. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin thay đổi nuôi con của chị T là có căn cứ. Vì vậy, yêu cầu kháng cáo của anh H đề nghị được nuôi cháu Nguyễn Quỳnh L, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên tòa là có căn cứ.

Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên anh H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận đơn kháng cáo của anh Nguyễn Văn H.

Giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 59/2022/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 81,82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị Hồng T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Giao con chung là cháu Nguyễn Quỳnh L, sinh ngày 25/12/2014 cho chị Dương Thị Hồng T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi cháu Nguyễn Quỳnh L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Anh Nguyễn Văn H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

2. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Dương Thị Hồng T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn H.

Khi xét thấy cần thiết hoặc do điều kiện sống có sự thay đổi, vợ chồng có thỏa thuận khác phù hợp với quy định pháp luật và vì lợi ích của con chung, các bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu, thay đổi mức cấp dưỡng hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí:

Buộc anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí phúc thẩm (được chuyển từ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đồng theo biên lai thu số 0000062 ngày 08/9/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

Trả lại cho chị Dương Thị Hồng T 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm đã nộp là theo biên lai số 0000835 ngày 28 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn số 17/2022/HNGĐ-PT

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về