Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn số 03/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2022 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN

Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 50/2021/TLST-HNGĐ ngày 20/10/2021 về việc “ tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Linh Thị T, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Q, xã M, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Mông Văn H, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Hoàng Thị N, địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Anh Mông Văn T, địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 04-10-2021, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn chị Linh Thị T trình bày:

Chị Linh Thị T và anh Mông Văn H đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn vào năm 2013. Trong quá trình chung sống chị Linh Thị T và anh Mông Văn H có 02 con chung là Mông Thị Ngọc L, sinh ngày 27-6-2014 và Mông Việt T1, sinh ngày 11-10-2019. Đến năm 2021, do không còn tình cảm với nhau nên chị Linh Thị T và anh Mông Văn H đã ly hôn, theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 12/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12-3-2021 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Theo Quyết định của Tòa án, anh Mông Văn H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung là Mông Thị Ngọc L và Mông Việt T1 cho đến khi đủ 18 tuổi, chị Linh Thị T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung là 1.000.000 đồng/01 cháu/01 tháng. Sau khi ly hôn, các con chung của chị Linh Thị T ở cùng với anh Mông Văn H, bà Hoàng Thị N (là mẹ của anh Mông Văn H) và anh Mông Văn T (là anh trai ruột của anh Mông Văn H) ở nhà của anh Mông Văn T. Chị Linh Thị T cho biết anh Mông Văn H hay tụ tập, chơi bời cùng bạn bè, không có công việc ổn định, lại nghiện ma túy, không lắng cho các con, thỉnh thoảng anh Mông Văn H lại bỏ đi chơi qua đêm, không chăm sóc cho các con. Khoảng đầu tháng 01 năm 2022, cháu Mông Thị Ngọc L bị trượt ngã, phải nhập viện, vì vậy chị Linh Thị T phải xin nghỉ phép ở công ty để về chăm sóc cháu Mông Thị Ngọc L. Sau đó để tiện cho việc chăm sóc cháu Mông Thị Ngọc L, ngày 25-01-2022, chị Linh Thị T đã đón cháu Mông Thị Ngọc L về bên ngoại tại thôn Q, xã M, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Anh Mông Văn H cũng nhất trí để chị Linh Thị T đón cháu Mông Thị Ngọc L về bên ngoại. Đến nay cháu Mông Thị Ngọc L vẫn ở cùng chị Linh Thị T.

Bản thân chị Linh Thị T từ khi ly hôn luôn thực hiện cấp dưỡng đầy đủ cho các con theo Quyết định của Tòa án, và luôn thường xuyên gọi điện thoại hỏi thăm tình hình sức khỏe của các con, mặc dù phải đi làm Công ty dưới tỉnh Bắc Ninh. Hiện tại chị Linh Thị T đang làm việc tại công ty S, công việc và thu nhập ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng của từ 5.000.000 (năm triệu) đồng đến 6.000.000 (sáu triệu) đồng/tháng, trường hợp nếu làm tăng ca thì sẽ được nhiều hơn. Ngoài ra chị Linh Thị T cũng được bố đẻ là ông Linh Văn H cho mảnh đất 70m2 để làm nhà, 2 sào ruộng, 1 ha rừng để trồng trọt.

Do đó để đảm bảo điều kiện ăn ở, học tập, điều kiện vật chất sinh hoạt cho cháu Mông Thị Ngọc L, chị Linh Thị T có yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, cụ thể chị Linh Thị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Mông Thị Ngọc L, sinh ngày 27-6- 2014 cho đến khi đủ 18 tuổi, chị Linh Thị T không yêu cầu anh Mông Văn H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 06-01-2022, bị đơn anh Mông Văn H trình bày: Anh Mông Văn H và chị Linh Thị T kết hôn vào năm 2013, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Trong quá trình c hung sống anh Mông Văn H và chị Linh Thị T có 02 con chung là Mông Thị Ngọc L, sinh ngày 27-6-2014 và Mông Việt T1, sinh ngày 11-10-2019. Do bất đồng quan điểm nên năm 2021, anh Mông Văn H và chị Linh Thị T đã ly hôn, theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 12/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12-3-2021 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Theo Quyết định của Tòa án anh Mông Văn H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung là Mông Thị Ngọc L và Mông Việt T1 cho đến khi đủ 18 tuổi, chị T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung là 1.000.000 đồng/01 cháu/01 tháng. Sau khi ly hôn thì hai con chung về ở cùng anh Mông Văn H và bà Hoàng Thị N là mẹ đẻ của anh Mông Văn H. Chị Linh Thị T vẫn hay về thăm, hỏi thăm và mua quà cho các con.

Khoảng tháng 03 năm 2021, anh Mông Văn H có sử dụng chất ma túy Heroine. Đến nay anh Mông Văn H vẫn còn sử dụng chất ma túy Heroine. Anh Mông Văn H cũng không có công việc và thu nhập ổn định. Đối với việc chăm sóc các con thì anh Mông Văn H phải nhờ bà Hoàng Thị N và anh Mông Văn T là anh trai hỗ trợ chăm sóc con.

Về yêu cầu của chị Linh Thị T, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Mông Thị Ngọc L, anh Mông Văn H sẽ xem xét cân nhắc, để tạo điều kiện tốt nhất cho con.

Người làm chứng bà Hoàng Thị N là mẹ đẻ của anh Mông Văn H và anh Mông Văn T là anh trai của anh Mông Văn H vắng mặt tại phiên tòa. Tại biên bản lấy lời khai bà Hoàng Thị N và anh Mông Văn T trình bày: Sau khi anh Mông Văn H và chị Linh Thị T ly hôn thì hai con của anh Mông Văn H và chị Linh Thị T về ở cùng với anh Mông Văn T và bà Hoàng Thị N. Hiện nay anh Mông Văn H vẫn đang nghiện chất ma túy. Các con của anh Mông Văn H chủ yếu vẫn do bà Hoàng Văn N chăm sóc, nuôi dưỡng, ngoài ra anh Mông Văn T cũng phải hỗ trợ, chăm sóc các con của anh Mông Văn H. Ngoài ra anh Mông Văn H cũng không có việc làm ổn định, lại đang bị nghiện.

Về việc chị Linh Thị T có yêu cầu thay đổi quyền nuôi con, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Mông Thị Ngọc L, bà Hoàng Thị N và anh Mông Văn T đều không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án, cụ thể như sau: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện đầy đủ và đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 229; Điều 264; Điều 266; Điều 269; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Linh Thị T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

Giao con chung Mông Thị Ngọc L, sinh ngày 27-6-2014 cho chị Linh Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Mông Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung Mông Thị Ngọc L.

Anh Mông Văn H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Anh Mông Văn H phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, bị đơn anh Mông Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tuy nhiên anh Mông Văn H vắng mặt. Chị Linh Thị T đã có đơn xin không tiến hành hòa giải và đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày hôm nay là phiên tòa triệu tập hợp lệ lần thứ hai, tuy nhiên anh Mông Văn H vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Những người làm chứng bà Hoàng Thị N, anh Mông Văn T đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, xét thấy những người làm chứng đã có lời khai tại Tòa án nên việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt anh Mông Văn H và những người làm chứng.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Linh Thị T yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” được quy định tại khoản 3 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; bị đơn Anh Mông Văn H có nơi cư trú tại Thôn B, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, do vậy thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Căn cứ Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 12/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12-3-2021 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, chị Linh Thị T và Mông Văn H thuận tình ly hôn, anh Mông Văn H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung là Mông Thị Ngọc L và Mông Việt T1 cho đến khi đủ 18 tuổi, chị Linh Thị T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung là 1.000.000 đồng/01 cháu/01 tháng. Nhưng nay chị Linh Thị T có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, anh Mông Văn H vắng mặt và chị Linh Thị T có đơn xin không tiến hành hòa giải, vì vậy chị Linh Thị T và anh Mông Văn H không thỏa thuận được vấn đề cần giải quyết của vụ án. Do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử, xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Linh Thị T.

[3.2] Hội đồng xét xử xét thấy, để quyết định người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, cần phải xem xét quyền lợi về mọi mặt của cha hoặc mẹ để đảm bảo sự phát triển về thể chất và tinh thần đầy đủ cho con.

[3.2.1] Xét về điều kiện hiện tại của nguyên đơn chị Linh Thị T: Hiện tại chị Linh Thị T đang làm việc tại công ty S, công việc và thu nhập ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng của từ 5.000.000 (năm triệu) đồng đến 6.000.000 (sáu triệu) đồng/tháng, ngoài ra chị Linh Thị T có nơi đăng ký thường trú rõ ràng tại thôn Q, xã M, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Bố đẻ của chị Linh Thị T là ông Linh Văn H cũng đã cho chị Linh Thị T mảnh đất 70m2 để làm nhà, 2 sào ruộng, 1 ha rừng để trồng trọt và tạo điều kiện về chỗ ở, các thành viên trong gia đình ông Linh Văn H đều nhất trí do đó thuận lợi cho việc chăm sóc con, hơn nữa chị Linh Thị T có bố mẹ đẻ còn trẻ lại ở nhà nên có thời gian để hỗ trợ chị Linh Thị T trong việc trông nom đưa đón cháu đi học khi chị Linh Thị T đi làm. Đồng thời căn cứ vào biên bản xác minh ngày 24/02/2022 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, hiện nay cháu Mông Thị Ngọc L đã chuyển về ở cùng với chị Linh Thị T, do chị Linh Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và khô ng còn ở với gia đình anh Mông Văn H nữa. Anh Mông Văn H, bà Hoàng Thị N là mẹ của anh Mông Văn H cũng không có ý kiến gì. Do đó thấy rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Linh Thị T là phù hợp cho việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Mông Thị Ngọc L. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị Linh Thị T không yêu cầu anh Mông Văn H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3.2.2] Xét điều kiện hiện tại của bị đơn: Sau khi ly hôn, cháu Mông Thị Ngọc L về sinh sống cùng với anh Mông Văn H, bà Hoàng Thị N là mẻ đẻ của anh H, anh Mông Văn T là anh trai của anh H tại nhà của anh Mông Văn T. Tuy nhiên qua Công văn số 03/CV-UBND ngày 21-01-2022 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn về việc trả lời xác minh thông tin của anh Mông Văn H và Biên bản xác minh ngày 24-02-2022 thấy rằng anh Mông Văn là đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn xã, không có công việc và thu nhập ổn định, thường xuyên không ở nhà, hay đi lang thang, có hôm không về nhà. Bà Hoàng Thị N là mẹ của anh Mông Văn H và anh Mông Văn T là anh trai của anh Mông Văn H cũng đã trình bày cháu Mông Thị Ngọc L chủ yếu do bà Hoàng Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng và phải nhờ anh Mông Văn T hỗ trợ chăm sóc cháu Mông Thị Ngọc L. Do việc chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Mông Thị Ngọc L của anh Mông Văn H không được đảm bảo nên chị Linh Thị T đã đón cháu Mông Thị Ngọc L về ở cùng mình, anh Mông Văn H và bà Hoàng Thị N cũng không có ý kiến gì.

[4] Từ những phân tích trên thấy rằng nguyên đơn chị Linh Thị T có đầy đủ điều kiện là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Mông Thị Ngọc L. Do vậy, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của nguyên đơn chị Linh Thị T có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Ý kiến trình bày của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa do phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần được chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; do yêu cầu của nguyên đơn chị Linh Thị T được chấp nhận nên bị đơn anh Mông Văn H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm để sung Ngân sách nhà nước. Chị Linh Thị T là người sinh sống ở nơi điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn toàn bộ án phí, nên theo quy định của pháp luật chị Linh Thị T được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 229; Điều 264; Điều 266; Điều 269; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Linh Thị T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

Giao con chung Mông Thị Ngọc L, sinh ngày 27-6-2014 cho chị Linh Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Mông Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Mông Văn H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

2. Về án phí: Bị đơn anh Mông Văn H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm để sung Ngân sách nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn số 03/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về