Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn số 52/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 52/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Trong ngày 16/08/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 210/2021/TLST-HNGĐ ngày 12/07/2021 về việc “ Thay đổi người trực tiếp nuoi con sau khi ly hôn” ; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2021/QĐTS- HNGĐ ngày 05/08/2021, giữa:

* Nguyên đơn: Anh Nguyễn Duy Th, sinh năm 1991.

ĐKHKTT: Số nhà 26, ngõ 261, đường L, phường P, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. ( Có mặt).

* Bị đơn: Chị Tạ Thị Thanh H, sinh năm 1994;

Địa chỉ: Phố V , thị trấn V , huyện C, tỉnh Bắc Giang.

Hiện bán hàng tại: Quầy thuốc số 994, ki ốt 21, chợ V , thị trấn V , huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn anh Nguyễn Duy Th trình bày: Năm 2019 anh và cô H có làm thủ tục ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, về con chung vợ chồng thỏa thuận cô H nuôi dưỡng con chung của vợ chồng là cháu Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 06/01/2017 vì lúc đó con chưa được 03 tuổi. Năm 2020 cô H kết hôn với người khác, hiện nay cô H đã mang thai và sắp sinh con. Từ khi cô H lấy chồng anh được biết cô H không có nhiều thời gian để chăm sóc con, cô H thường nhờ bố mẹ đẻ chăm sóc cho cháu M, thời gian cô H chăm sóc cháu M có nhiều lần anh đến đón con tại Trường có được giáo viên phản ánh cô H thường xuyên quên mang sữa cho con đến lớp, việc đưa đón con chủ yếu là do mẹ cô H đưa đón. Hiện nay anh chưa xây dựng gia đình, anh ở cùng với mẹ anh, mẹ anh mới về hưu và vẫn còn khỏe, anh có việc làm tại Đài truyền hình tỉnh Bắc Giang, làm trong giờ hành chính, có thu nhập ổn định, anh xác định có nhiều thời gian và điều kiện chăm sóc con tốt hơn cô H, vì cô H sắp đẻ chồng cô H cũng có con riêng, thời gian dịch bệnh vừa qua cháu M chủ yếu ở với anh, cháu cũng muốn về ở với anh nhưng do cháu còn nhỏ chưa thể lấy ý kiến của cháu. Để đảm bảo cháu có điều kiện chăm sóc anh xin đề nghị thay đổi nuôi con, anh xin được nuôi cháu M. Về cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu cô H cấp dưỡng, anh cam kết không giấy khó khăn cản trở việc cô H thăm nom, chăm sóc cháu M.

* Bị đơn chị Tạ Thị Thanh H có ý kiến: Chị và anh Th lý hôn năm 2019, tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn về con chung giao cho chị nuôi con chung là Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 06/01/2017. Sau khi ly hôn chị về gia đình nhà bố mẹ tại thị trấn Vôi sinh sống, sau đó chị có đăng ký kết hôn, theo quy định tại điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì không có chỗ nào quy định sau khi ly hôn không có quyền kết hôn và sinh con, việc anh Th lấy lý do chị đã kết hôn và chuẩn bị sinh con là không có cơ sở. Anh Th làm việc hành chính ở Đài truyền hình thời gian chủ động chăm sóc con không tốt bằng chị. Sau khi kết hôn chị và chồng sống tại nhà riêng, chị kinh doanh cửa hàng thuốc thu nhập khoảng 15.000.000đồng / tháng, chị chủ động được thời gian chăm sóc con, chồng chị làm bộ đội cũng yêu thương cháu M, sau khi sinh con chị sẽ thuê người bán hàng, mẹ chồng chị lên chăm sóc chị đẻ. Chồng chị cũng có một con riêng, sau này vợ chồng chị sẽ chăm sóc cháu, chị hiện nay đang có thai 08 tháng, chị vẫn có điều kiện chăm sóc cháu M. Từ khi cháu M về ở với chị cháu có cuộc sống tốt, cháu được học ở Trường song ngữ, cháu được mọi người chăm sóc tốt, chị cũng tạo mọi điều kiện cho anh Th đưa đón và chăm sóc cháu. Nên chị đề nghị được tiếp tục chăm sóc cháu M.

* Quá trình giải quyết vụ án bố mẹ chị H và chồng mới của chị H có ý kiến muốn chị H tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu M.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng không tiến hành hòa giải do anh Th có đơn xin từ chối hòa giải và đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay anh Th vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Tại phiên tòa hôm nay chị H xin được vắng mặt tại phiên tòa.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án chưa thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật. Bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, như vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Về yêu cầu xin thay đổi nuôi con của anh Th: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn cho anh Nguyễn Duy Th được nuôi con là cháu Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 06/01/2017.

Về án phí: Chị H chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Đơn khởi kiện của anh Nguyễn Duy Th cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo khoản 3 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự, đảm bảo thực quyền, nghĩa vụ của đương sự. Chị H xin vắng mặt Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung tranh chấp: Anh Nguyễn Duy Th và chị Tạ Thị Thanh H kết hôn và có con chung là Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 06/01/2017, do mâu thuẫn nên anh chị đã yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang giải quyết ly hôn,tại Quyết định cộng nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 234/2019/QĐST- HNGĐ ngày 11/10/2019 đã thỏa thuận về con chung chị H nuôi con chung là cháu Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 06/01/2017. Sau khi ly hôn chị H đã thực hiện việc nuôi con theo quyết định công nhận của Tòa án. Vào năm 2020 chị H kết hôn với người khác, hiện nay chị H đã có thai với chồng mới và sắp sinh con. Đối với yêu cầu xin thay đổi nuôi con của anh Th thì thấy: Sau khi ly hôn chị H đã lấy chồng, chuẩn bị sinh con, chồng mới của chị H có 01 con riêng thời gian tới vợ chồng chị H sẽ trực tiếp chăm sóc cháu, anh Th hiện nay chưa lấy vợ, anh Th sống cùng với mẹ, anh Th có việc làm, có nơi ở và thu nhập ổn định, chị H nuôi con nhưng chủ yếu nhờ mẹ để đưa đón chăm sóc con, theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình về căn cứ thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn tại điểm b khoản 2 có quy định “ Người trực tiếp nuôi con không có đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” , xét về điều kiện thực tế của anh Th và chị H thì thấy anh Th đã đưa ra được các tài liệu chứng M thu nhập, có mức thu nhập ổn định đủ điều kiện chăm sóc bản thân và con, anh Th có mẹ phụ giúp việc chăm sóc, đưa cháu đi học, quản lý cháu khi anh Th đi làm, trong thời gian dịch bệnh cháu M thường xuyên ở với anh Th, còn chị H hiện nay chuẩn bị sinh con, chồng chị H có 01 con riêng nên chị H không có đủ điều kiện chăm sóc cháu M tốt bằng anh Th. Từ điều kiện của anh Th và chị H, thực tế trên cơ sở xem xét quyền lợi ích của cháu M, HĐXX chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Duy Th về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, giao cho anh Nguyễn Duy Th nuôi cháu Nguyễn Tuấn M là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, bảo đảm quyền lợi cho cháu M được chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, được bảo đảm các điều kiện để phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ, tinh thần.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Th không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng các điều 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Xử:

2. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Duy Th về việc thay đỏi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

Giao cho anh Nguyễn Duy Th nuôi con Nguyễn Tuấn M sinh ngày 06/01/2017.

Sau khi cháu Nguyễn Tuấn M được giao cho anh Th nuôi, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này.

3. Án phí: Chị Tạ Thị Thanh H phải chịu 300.000chịu án phí dân sự sơ thẩm. Anh Nguyễn Duy Th không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả anh Nguyễn Duy Th số tiền đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012316 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

410
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn số 52/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:16/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về