Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn số 13/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2021/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

33/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn :Lương Thị Kim A, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Đường P, thị trấn Th, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Ông Phan Huy V, sinh năm: 1980;

Địa chỉ: Đường X, thị trấn Th, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

(Bà Kim A, ông V vắng mặt nhưng đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) bày:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Lương Thị Kim A trình Bà và ông Phan Huy V là vợ chồng nhưng sau đó đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 79/2013/QĐST-HNGĐ ngày 06/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, về phần con chung thì giao cho bà trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phan C, sinh ngày 23/3/2005, giao cho ông V trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phan Bảo K, sinh ngày 04/6/2008. Quá trình nuôi dưỡng cháu K, bà nhận thấy ông V không có khả năng nuôi dưỡng, không cho cháu K tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí bình thường, không giao tiếp với thế giới bên ngoài, cắt đứt mọi liên lạc với bạn bè, người thân, không cho bà được thăm con làm cho cháu thiếu thốn tình thương của người mẹ. Cách giáo dục con của ông V không phù hợp đã làm cho cháu không được phát triển bình thường như những đứa trẻ khác mà dẫn đến bị trầm cảm. Ông V đã kết hôn với người phụ nữ khác, điều kiện kinh tế khó khăn, môi trường sống phức tạp dẫn đến xung đột thường xuyên trong gia đình nên đã ảnh hưởng đến việc học tập, nhận thức của cháu K.

Về phía bà là người đã tốt nghiệp đại học sư phạm, đang là chủ doanh nghiệp, có thu nhập ổn định nên có điều kiện quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng con tốt hơn. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu K, bà yêu cầu giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cháu Phan Bảo K cho bà được trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.

Tại bản tự khai và lời khai tiếp theo trong quá trình tố tụng, bị đơn ông Phan Huy V trình bày:

Ông xác nhận lời trình bày của bà Kim A về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa ông với bà Kim A cũng như việc thỏa thuận nuôi con chung như bà Kim A trình bày là đúng. Sau khi ông bà ly hôn vào năm 2013, thì cháu Phan Bảo K được giao cho ông trực tiếp nuôi dưỡng và ở với ông từ đó đến nay đã 08 năm. Thời gian cháu K ở với ông được ông nuôi dưỡng tốt, cháu phát triển bình thường, việc học tập của cháu từ năm lớp 1 đến lớp 7 đều đạt học sinh tiên tiến, học sinh giỏi được nhà trường ghi nhận và hiện tại cháu đang học lớp 8 tại trường THCS Thạnh M. Ông là nhân viên của Điện lực Đ nên có nghề nghiệp ổn định, thu nhập bình quân khoảng 14.000.000đ/tháng. Có nhà riêng thuộc quyền sở hữu của ông tại số 11A đường X, thị trấn Th, huyện Đ nơi mà hai cha con ông lâu nay vẫn sinh sống. Đối với bà Kim A được giao nuôi dưỡng cháu Phan C thì ông được biết trước đây cháu C học tại trường THCS Đà L, huyện Đ nhưng đã bỏ học sau khi học hết lớp 9. Trước đây, bà Kim A là giáo viên nhưng đã nghỉ việc, hiện nay bà Kim A không có nghề nghiệp ổn định và đang ở tỉnh Gia Lai. Vì vậy, điều kiện nuôi dưỡng con không tốt nên ông không đồng ý giáo cháu Phan Bảo K cho bà Kim A trực tiếp nuôi dưỡng như yêu cầu khởi kiện của bà Kim A.

Vụ án không tiến hành hòa giải được do nguyên đơn bà Kim A có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Kim A, bị đơn ông V đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng là nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của nguyên đơn bà Lương Thị Kim A đối với bị đơn ông Phan Huy V về việc giao cháu Phan Bảo K, sinh ngày 04/6/2008 cho bà Lương Thị Kim A trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1]Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa bà Lương Thị Kim A với ông Phan Huy V là “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo quy định tại khoản 3 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn ông V có địa chỉ cư trú tại số 11A đường X, thị trấn Th, huyện Đ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]Về việc vắng mặt của đương sự:

Nguyên đơn bà Kim A, bị đơn ông V vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà Kim A, ông V theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của nguyên đơn thì thấy:

Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 79/2013/QĐST-HNGĐ ngày 06/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã giải quyết công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Lương Thị Kim A với ông Phan Huy V. Về con chung, giao cháu Phan C cho bà Kim A, giao cháu Phan Bảo K cho ông V trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Sau khi bà Kim A và ông V chấm dứt quan hệ hôn nhân thì ông V đã nhập hộ khẩu của cháu K vào hộ khẩu của ông V tại số 11A đường X, thị trấn Th, huyện Đ và trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu K từ năm 2013 cho đến nay. Quá trình nuôi dưỡng ông V luôn quan tâm, chăm sóc, tạo điều kiện cho cháu K học tập, vui chơi và phát triển tốt về mọi mặt. Để chứng minh cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và điều kiện nuôi dưỡng cháu K của mình thì ông V có giao nộp cho Tòa án Giấy chứng nhận cháu ngoan Bác Hồ, Giấy khen, Bảng thanh toán tiền lương, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CX 076545 do UBND huyện Đơn Dương cấp cho ông Phan Huy V ngày 20/8/2020 (bút lục 21- 40). Xem xét các tài liệu, chứng cứ này thể hiện việc học tập, rèn luyện của cháu K từ năm lớp 1 đến năm lớp 7 tại trường tiểu học Thạnh M, trường THCS Thạnh M đều đạt học sinh tiên tiến và học sinh giỏi; ông V hiện đang công tác tại Điện lực Đ và có chỗ ở ổn định thể hiện qua chứng cứ là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do cơ quan có thẩm quyền cấp mang tên ông V.

Tại biên bản xác minh ngày 05/8/2021 “bút lục 56” đối với ông Nguyễn Văn Ph là tổ trưởng tổ dân phố Thạnh Hòa, ông Ph cho biết “Từ năm 2013 đến nay cháu Bảo K sống cùng ông V tại số 11A đường X, quá trình sinh sống nhận thấy ông V nuôi dưỡng cháu K rất tốt, quan tâm, chăm sóc cho cháu về ăn ở, học tập rất chu đáo của một người cha, cháu K trong suốt thời gian qua luôn đạt học sinh giỏi và hiện nay đang học tập tại trường THCS Thạnh M, luôn là con ngoan trong gia đình điều này ở địa phương ông nắm được, biết được. Ông V công tác tại Điện lực Đ, có nhà riêng, công việc thu nhập ổn định, có điều kiện nuôi dưỡng cháu K tốt hơn nên đề nghị Tòa án tiếp tục giao cháu K cho ông V trực tiếp nuôi dưỡng”. Cũng tại biên bản xác minh ngày 05/8/2021 “bút lục 57” ông Phạm Đ, địa chỉ: số 10/8 đường X, thị trấn Th là người hàng xóm sống gần nhà ông V cho biết “Từ năm 2013 đến nay ông V trực tiếp nuôi dưỡng cháu K một cách chu đáo, chăm lo từ việc ăn uống, sinh hoạt hàng ngày, luôn tạo điều kiện cả về vật chất, tinh thần để cho cháu K học tập, vui chơi và phát triển tốt về mọi mặt”.

Tại biên nản lấy lời khai ngày 07/7/2021 “bút lục 44” cháu Phan Bảo K trình bày “Quá trình chung sống với ba và do ba trực tiếp nuôi dưỡng cháu từ năm 2013 đến nay thì điều kiện rất tốt, cháu được chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo, đầy đủ, môi trường sống thì thoải mái, cháu được học tập, vui chơi, kết quả học tập của cháu hàng năm đều đạt học sinh tiên tiến và học sinh giỏi. Năm học 2021-2022 thì cháu lên lớp 8 và học tại trường THCS Thạnh M, huyện Đ. Sống cùng với ba thì luôn được ba yêu thương, chăm sóc. Ngoài việc học tập ở trường, học thêm thì ba còn quan tâm chỉ bài cho cháu học. Nguyện vọng của cháu là muốn được ở với ba. Vì điều kiện của ba chăm sóc cháu tốt, được ba quan tâm, động viên, chia sẻ, được vui chơi, được học tập tốt hơn”.

Từ những chứng cứ thu thập nêu trên thấy rằng nguyên đơn bà Kim A trình bày về việc cách giáo dục con của ông V không phù hợp đã làm cho cháu không được phát triển bình thường như những đứa trẻ khác mà dẫn đến bị trầm là không đúng, cháu K vẫn đang được ông V nuôi dưỡng, giáo dục và phát triển tốt. Ngoài ra, bà Kim A cho rằng bà là chủ doanh nghiệp, có thu nhập ổn định nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh.

Xét điều kiện nuôi dưỡng con thì thấy ông V có công việc ổn định, có thu nhập và có nhà riêng tại thị trấn Th, huyện Đ gần nơi ông V công tác và trường học của cháu K nên có điều kiện kinh tế và thuận lợi để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K tốt. Hơn nữa, nguyện vọng của cháu K muốn được ở với ông V. Mặt khác, bà Kim A hiện nay đang trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phan C. Vì vậy, để ổn định chỗ ở, việc học tập, không làm xáo trộn sinh hoạt của cháu K nên Hội đồng xét xử nhận thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của nguyên đơn bà Kim A đối với bị đơn ông V về việc giao cháu K cho bà Kim A trực tiếp nuôi dưỡng.

[3] Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên nguyên đơn bà Kim A phải chịu 300.000đ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Bị đơn ông V không phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 205, 206, 207, 220, 227, 228, 262 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1.Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của nguyên đơn bà Lương Thị Kim A đối với bị đơn ông Phan Huy V về việc giao cháu Phan Bảo K, sinh ngày 04/6/2008 cho bà Lương Thị Kim A trực tiếp nuôi dưỡng.

2.Về án phí: Buộc bà Lương Thị Kim A phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0006559 ngày 21/6/2021của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đơn Dương (bà Kim A đã nộp đủ). Ông Phan Huy V không phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

3.Về quyền kháng cáo: Bà Lương Thị Kim A, ông Phan Huy V vắng mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

377
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn số 13/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về