TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 38/2023/DS-PT NGÀY 30/11/2023 VỀ TRANH CHẤP TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở
Trong ngày 30 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 32/2023/TLPT – DS ngày 12 tháng 10 năm 2023 về việc “tranh chấp tài sản và quyền sở hữu nhà ở” Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh H bị kháng nghị và kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 43/2023/QĐ-PT ngày 14 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh X – sinh năm 1966;
Trú tại: Số nhà 04, đường 259, tổ 8, phường P, thành phố B, tỉnh B. Có mặt.
Ủy quyền cho: Ông Bùi X Th – sinh năm 1949; Trú tại: Khu Mớ Đá, thị trấn Bo, huyện Kim Bôi, tỉnh B. Có mặt.
Bị đơn: Ông Đặng Hùng T, sinh năm 1958. Trú tại: Tổ 8, phường P, thành phố B, tinh B. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Vũ Thế Hợp – Luật sư Công ty Luật TNHH G và L.Có mặt.
Ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Đặng Thị M – sinh năm 1963 (Vợ ông T). Có mặt.
- Chị Đặng Quế L – sinh năm 1997 (Con ông T, bà M). Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Chị Đặng Thị Hồng L – sinh năm 2000 (Con ông T, bà M). Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Đều trú tại: Tổ 8, phường P, thành phố B, tỉnh B - Ông Vũ Thế V – sinh năm 1963. Có mặt.
- Chị Vũ Khánh V – sinh năm 1996. Vắng mặt.
Đều trú tại: Số nhà 04, đường 529, tổ 8, phường P, TP B, tinh B.
Ông V, bà V ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thanh X (nguyên đơn). Có mặt.
- Chị Vũ Lan P – sinh năm 1990 Trú tại: Thôn Dư Xá, xã Hòa Phú, huyện U, TP H. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1958.
Nơi cư trú: Tổ 09, phường P L, thành phố B, tỉnh B. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Tổng Công ty S̀. Vắng mặt.
* Ngƣời làm chứng:
- Bà Ngô Thị S, sinh năm 1959. Có mặt.
- Bà Nhâm Thị H, sinh năm 1961. Có mặt.
- Bà H̀ng Thị Th, sinh năm 1952. Có mặt.
Đều trú tại: Tổ 8, phường P, thành phố B, tinh B - Ông Nguyễn Tiến Tr, sinh năm 1966. Vắng mặt.
Trú tại: Tổ 1, phường P, thành phố B, tinh B - Bà Phạm Thị D, sinh năm 1962. Vắng mặt.
Trú tại: SN Đ1, tổ 16, ngõ 112, phường Kiến Hưng, quận H, TP H.
Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B.
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X, bị đơn ông Đặng Hùng T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm nội dung thể hiện như sau:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X trình bày:
Ngày 01/01/1997, bà X mua lại 02 gian nhà số 04 và gian số 05 tại dãy P12, tiểu khu 12, ngõ 24, đường Nguyễn Văn Trỗi, tổ 08, phường P, TP B, tỉnh B của bà Ngô Thị S (trú tại tổ 8, phường P, TP B). Nguồn gốc, bà S mua của Phạm Thị D và ông Vũ Thanh K sau đó do không có nhu cầu sử dụng bà S lại bán lại cho bà X. Vì đã lâu nên bà X không nhớ giá tiền mua, mỗi gian có diện tích là 16m2, hai bên có viết giấy chuyển nhượng nhà đất ngày 01/01/1997, không có xác nhận của UBND phường, cũng không có người chứng kiến, chỉ có bà X và bà S ký nhận với nhau, bà X trả tiền cho bà S và bà S giao lại cho bà X hai quyết định giao nhà của Tổng giám đốc tổng công ty xây dựng S̀. Quyết định số 5154 ngày 08/10/1996 của Tổng giám đốc TCT XD S̀ giao quyền quản lý và sử dụng nhà ở gian số 04 + gian số 05 dãy P12, tiểu khu 12; tổng diện tích hai gian là 32m2. Bà X và bà S có đến Dãy P12, tiểu khu 12 để giao nhận 02 gian nhà cho nhau.
Sau khi mua xong bà X không ở mà để không, nên vợ chồng ông T, bà M là người ở các gian còn lại của dãy P12 đã tự ý sử dụng 02 gian nhà trên của bà X, một gian để nuôi gà, 01 gian để ở.
Nay bà X yêu cầu ông T, bà M phải trả lại cho bà X 02 gian nhà trên, ông T, bà M phải tháo dỡ mái tôn, trả lại nguyên trạng hai gian nhà cho bà X.
Bị đơn ông Nguyễn X T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến ông T, bà M thống nhất trình bày:
Năm 1997, vợ chồng ông T mua của ông Vũ L Sơn 02 gian nhà số 01+02 và 1000m2 đất vườn, giá 3.000.000đ ( ba triệu đồng ) khi mua bán hai bên có viết giấy chuyển nhượng nhà và đất; ông Sơn là người viết giấy chuyển nhượng, ông T là người mua ký giấy. Ông Sơn giao 02 gian nhà và 1000m2 đất cho ông T luôn.
Tiếp đến năm 2002, vợ chồng ông T mua của ông Nguyễn Tiến Tr 02 gian nhà số 07+5, diện tích 02 gian là 32m2 + 400m2 đất vườn ở cạnh gian 07+5, không nhớ cụ thể số tiền; khi mua bán hai bên có viết giấy chuyển nhượng nhà và đất; ông Tr là người viết giấy chuyển nhượng, ông T là người mua ký giấy; có ông Nguyễn Thanh Q ký xác nhận việc mua bán của chúng tôi. Ông Tr giao 02 gian nhà và 400m2 đất cho ông T luôn. Năm 2005 vợ chồng ông T mua gian 06 của bà Nguyễn Thị Lợi, bà Lợi giao cho ông T Quyết định chính chủ do Tổng công ty S̀ cấp. Năm 2005 UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Gian 06) mang tên Nguyễn Thị Lợi, hiện nay gia đình ông T vẫn đang ở.
Thời điểm này dãy nhà P12 tồn tại 05 gian gồm gian 01+02+05+06+07 vợ chồng ông T đã mua hết. Gian 01+02 mua của ông Sơn, gian 07 +5 mua của ông Tr. Gian 06 mua của bà Lợi. Tất cả nhà và đất ông T mua trên đã được cấp Giấy chứng nhận 01 phần (Gian 06 cấp giấy chứng nhận QSD đất ; tên Nguyễn Thị Lợi, hiện nay gia đình tôi vẫn đang ở); phần còn lại chưa được cấp với lý do nằm trong quy hoạch của tỉnh. Đất và nhà của ông T mua ổn định không tranh chấp với ai. Vợ chồng ông T không thấy có gian 04 nào.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà X. Vì hai gian nhà trên vợ chồng ông T mua năm 2002 của ông Nguyễn Tiến Tr, hiện nay ông Tr đang ở Phố Bưng, huyện Cao Phong, tỉnh B; ông T ở từ năm 2002 cho đến nay. Khi mua bán ông T và ông Tr có viết giấy chuyển nhượng nhà ngày 05/12/2002 có ông Đặng Thanh Q là tổ trưởng tổ 8 xác nhận việc mua bán. Đề nghị Tòa án xử bác đơn khởi kiện của bà X.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS - ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B Quyết định:
Căn cứ Khoản 2 Điều 26; Điểm a, Khoản 1 điều 35; Điểm a, Khoản 1, Điều 39, Khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 221 Bộ luật dân sự về căn cứ xác lập quyền sở hữu.
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh X về việc buộc gia đình ông Đặng Hùng T phải trả lại 02 gian nhà là gian số 04 và gian 05 dãy P12 tiểu khu 12, Tổ 08, phường P thành phố B, diện tích là 32m và phải tháo dỡ toàn bộ những tài sản mà ông T xây dựng trên đất, trả lại nguyên hiện trạng nhà, đất.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo. Ngày 13/6/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh H kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B, theo Quyết định kháng nghị số 02/QĐKNPT –VKS-DS kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 13 tháng 6 năm 2023, bà Nguyễn Thị Thanh X có đơn kháng cáo đ ề nghị hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B.
Ngày 14/6/2023 ông Đặng Hùng T có đơn kháng cáo một phần bản án dân sự số 11/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố B cụ thể kháng cáo về nội dung “Xét thấy và kiến nghị giải quyết vụ án” trong phần bản án, đề nghị xem xét giải quyết theo hướng sửa nội dung “Xét thấy và kiến nghị giải quyết vụ án” theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X, bị đơn ông Đặng Hùng T giữ nguyên kháng cáo.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn ông Đặng Hùng T trình bày: Đối với diện tích đất ông T đang sử dụng chưa có quyết định thu hồi nào của cơ quan có thẩm quyền nhưng Tòa sơ thẩm lại kiến nghị thu hồi là không đúng ảnh hưởng đến quyền lợi của ông T và vượt quá phạm vi khởi kiện. Đề nghị Tòa án bỏ phần kiến nghị.
Đai diên Viên kiêm sat nhân dân tinh H Binh tham gia phiên toa nêu quan điêm:
Vê tô tung: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Vê nôi dung : Quá trình giải quyết vụ án Toà án nhân dân thành phố H đã vi phạm thủ tục tố tụng và vi phạm, thiếu sót trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ dẫn đến việc giải quyết vụ án chưa đảm bảo và khách quan. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng Dân sự chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, chấp nhận kháng cáo của bà X, ông T, hủy Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố B giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1].Về thủ tục tố tụng:
Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B ngày 13/6/2023, kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 13/6/2023 gửi đến Tòa án ngày 14/6/2023và đơn kháng cáo bị đơn ông Đặng Hùng T ngày 14/6/2023 gửi đến Tòa án ngày 14/6/2023 trong thời gian luật định và hợp lệ.
[2]. Nội dung vụ án:
Bà X khai năm 1996 bà Phạm Thị D được Tổng giám đốc Công ty xây dựng S̀ giao cho 02 gian nhà số 4, số 5, tiểu khu12, phường P, thành phố B, tỉnh B theo quyết định giao nhà số 5154/TCT – NP ngày 08/10/1996 với diện tích mỗi căn là 16 m2. Năm 1997 do không có nhu cầu sử dụng nên bà D đã chuyển nhượng cho bà Ngô Thị S 02 gian nhà số 04, 05.Đến năm 1997 do bà S không có nhu cầu sử dụng nên đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Thanh X 02 gian nhà nêu trên bằng giấy tờ chuyển nhượng viết tay, việc mua bán căn hộ không có ai chứng kiến. Sau khi mua xong, bà X không sinh sống tại gian nhà 04,05và để không, đến năm 2008 khi bà đến sửa chữa thì phát hiện vợ chồng ông T, bà M đang sống ở căn nhà gian số 04 và gian 05 của bà.
Nay bà X khởi kiện yêu cầu ông T, bà M trả lại 02 gian nhà 04, 05, dãy P12, tổ 8, phường P, thành phố B, tỉnh B. Yêu cầu ông T tháo dỡ toàn bộ công trình trên gian nhà số 04, 05 trả lại nguyên hiện trạng ban đầu cho bà X.
Phía bị đơn ông Đặng Hùng T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà X, cho rằng trong dãy nhà ông sinh sống, không có gian nhà số 04, còn gian số 05 ông mua của ông Nguyễn Tiến Tr vào năm 2002, việc mua bán có lập văn bản chuyển nhượng nhà và đất, có ông Nguyễn Thanh Q xác nhận việc mua bán căn hộ này. Do vậy, bà X khởi kiện yêu cầu ông T trả lại gian nhà 04, 05 thuộc dãy P12, tiểu khu 12, tổ 8, phường P, TP B, tỉnh B, ông không đồng ý.
[3].Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B về việc đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Thứ nhất: Tại biên bản xác minh ngày 26/12/2022 tại UBND phường P thể hiện diện tích đất tranh chấp gian nhà số 04, 05 hiện nay đang do UBND phường P quản lý và đã có quyết định thu hồi, quy hoạch của Chùa phật quang vì vậy cấp sơ thẩm không đưa UBND phường P và UBND thành phố B tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là vi phạm Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ hai: Bà X khai bà mua 02 gian nhà số 04, 05 từ bà S và bà S nhận chuyển nhượng 02 gian nhà từ bà D, bà D được Tổng Công ty xây dựng S̀ giao quyền quản lý và sử dụng gian nhà số 04, 05 dãy P12, tiểu khu 12 nay là tổ 8, phường P, Thành phố B, tỉnh B, theo Quyết định 5154 của Tổng Công ty xây dựng S̀, bà X đã cung cấp cho Tòa án Quyết định 5154 của Tổng Công ty xây dựng S̀. Quá trình giải quyết vụ án bà X yêu cầu ông T trả lại 02 gian nhà số 04, 05 tuy nhiên cấp sơ thẩm chỉ trưng cầu giám định quyết định 5154 của Tổng công ty S̀ giao quyền quản lý và sử dụng cho bà D tại gian số 5 mà không trưng cầu giám định quyết định 5154 của Tổng công ty S̀ giao quyền quản lý và sử dụng cho bà D tại gian số 04 là thiếu sót, chưa có cơ sở để khẳng định bà X có quyền sở hữu căn hộ số 04, dãy P12, tiểu khu 12 nay là tổ 8, phường P, TP B, tỉnh B hay không.Mặt khác, theo biên bản xác minh tại Tổng Công ty S̀, ông Phạm Đức Thành - Phó Tổng giám đốc khẳng định “Tổng công ty xây dựng Sông Đà là Cơ quan có thẩm quyền giao nhà (đại diện Tổng Công ty xây dựng Sông Đà tại Hòa Bình) mới có thẩm quyền giao nhà và quản lý sử dụng nhà ở cho công nhân Sông Đà.Tổng Công ty Sông Đà không ủy quyền cho xí nghiệp xây dựng Sông Đà 703 thuộc công ty xây dựng Sông Đà 7 gian nhà cho bất cứ ai” (BL số 282). Tại Quyết định giao nhà số 5157 ngày 08/10/1996, Điều 1 có ghi giao nhà cho ông Nguyễn Tiến Tr gian số 07 + 5 và đóng dấu treo của Xí nghiệp xây dựng S̀ 703. Toà án cấp sơ thẩm chưa làm rõ về nội dung này, tại sao ông Tr lại được giao 02 gian nhà. Qua xác minh thì ông Tr khẳng định chỉ được giao 01 gian nhà nhưng không nhớ gian số mấy và đã bán lại cho ông T. Như vậy, là thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ.
Thứ ba: Theo kết quả trích đo ngày 16/12/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai thì gian số 4 và số 5 nằm trong thửa số 8 tại tổ 8 phường P, TP B. Tuy nhiên tại phần nhận định của bản án sơ thẩm kiến nghị UBND thành phố B, UBND phường P trong phạm vi thẩm quyền của mình thu hồi lại toàn bộ diện tích đất theo trích đo hiện trạng thửa đất ngày 16/11/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B cụ thể là thửa số: 8, 9, 10, 11 tại tổ 8 phường P, TP B mà gia đình ông Phạm Hùng T đang sử dụng là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, vi phạm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, hơn nữa việc cấp sơ thẩm nhận định kiến nghị Ủy ban thu hồi đất của gia đìnhông Đặng Hùng T khi chưa có ý kiến của Ủy ban nhân dân phường P và UBND thành phố B có việc thu hồi hay không là thiếu sót, không đảm bảo trình tự thủ tục tố tụng.
Từ những nhận định trên xét thấy kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B là có căn cứ nên cần chấp nhận kháng nghị về việc đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B.
[3]. Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thanh X và ông Đặng Hùng T:
Nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thanh X thể hiện: Nguồn gốc 02 gian nhà số 04, 05 là của bà Phạm Thị D, năm 1996 bà D được Tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng S̀ giao quyền quản lý và sử dụng nhà ở gian số 04, 05, sau đó vợ chồng bà D bán lại cho bà Ngô Thị S, năm 1997 bà S bán lại gian số 04, 05 cho bà và giao cho bà 02 Quyết định số 5154 ngày 08/10/1996 của Tổng giám đốc TCT XD S̀ giao quyền quản lý và sử dụng nhà ở gian số 04 + gian số 05 cho bà D, hai bên có viết giấy chuyển nhượng nhà đất với nhau nhưng không có xác nhận của UBND phường, bà S đã bàn giao 02 gian nhà số 04, 05 cho bà, sau khi mua 02 gian nhà cho đến nay bà đã nộp thuế cho nhà nước từ năm 2010 có hóa đơn nộp thuế, bà là chủ sở hữu của 2 gian nhà số 04, 05 vì vậy việc cấp sơ thẩm bác toàn bộ đơn khởi kiện của bà là không đúng pháp luật, bà đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Nội dung kháng cáo của ông Đặng Hùng T thể hiện: Nội dung của phần “Xét thấy và Kiến nghị giải quyết vụ án” trong bản án sơ thẩm không phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, không phản ánh đúng sự thật khách quan về quá trình tạo lập, sử dụng đất của gia đình ông. Nội dung kiến nghị giải quyết vụ án nằm ngoài phạm vi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong khi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là quyền sở hữu nhà đối gian nhà số 04, 05. Đề nghị HĐXX sửa nội dung “Xét thấy và Kiến nghị giải quyết vụ án” trong bản án đúng quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông.
Hội đồng xét xử xét thấy: Như đã nhận định ở trên, quá trình giải quyết vụ án Toà án nhân dân thành phố H đã vi phạm thủ tục tố tụng và vi phạm, thiếu sót trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ dẫn đến việc giải quyết vụ án chưa đảm bảo và khách quan. Những vi phạm này là nghiêm trọng không thể khắc phục được ở cấp phúc thẩm. Như vậy, Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X và kháng cáo của bị đơn ông Đặng Hùng T là có căn cứ. Do vậy Tòa án cấp phúc thẩm cần phải hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án thành phố B xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Đương sự không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội;
Xử:
[1] Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B.
[2] Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X và bị đơn ông Đặng Hùng T
[3] Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS – ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Về án phí:
-Trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh X 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0004968 ngày 19/6/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh B.
- Trả lại cho ông Đặng Hùng T 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0004988 ngày 04/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh B.
- Về án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác được xác định khi Tòa án giải quyết lại vụ án.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp tài sản và quyền sở hữu nhà ở số 38/2023/DS-PT
Số hiệu: | 38/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về