Bản án về tranh chấp tài sản chung và yêu cầu hủy vi bằng của văn phòng thừa phát lại số 648/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 648/2023/DS-PT NGÀY 18/09/2023 VỀ TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG VÀ YÊU CẦU HỦY VI BẰNG CỦA VĂN PHÒNG THỪA PHÁT LẠI

Ngày 18 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H, xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm, thụ lý số 180/2023/TLPT-DS ngày 28 tháng 3 năm 2023, về việc: “Tranh chấp tài sản chung và yêu cầu hủy vi bằng của VP Thừa phát lại”, giữa các bên đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1944; Cư trú tại: A N, Phường E, quận B, Thành phố H; Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Trần Thị Như M, sinh năm 1994; Cư trú tại: F V, Phường C, quận B, Thành phố H (Có mặt); Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phạm Văn Đ, Văn phòng L1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (Có mặt).

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị S1, sinh năm 1937; Cư trú tại: 012/AB, ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre; Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Hữu M1, sinh năm 1972; Cư trú tại: B V, phường G, quận G, Thành phố H (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Trần Thanh T, sinh năm 1961.

2/ Bà Phạm Thị L, sinh năm 1961.

3/ Chị Trần Phạm Thu N, sinh năm 1987.

Cùng cư trú tại: Số nhà B, đường A, Khu phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Bến Tre.

4/ Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của anh Trần Thanh S2, sinh năm 1985 (đã chết): Ông Trần Thanh T, sinh năm 1961; Bà Phạm Thị L, sinh năm 1961; Chị Lê Thị Hồng P, sinh năm 1985; Trần Lê Phương U, sinh năm 2004; Trần Lê Uyên P1, sinh năm 2007; Người đại diện theo pháp luật của Trần Lê Uyên P1: Chị Lê Thị Hồng P;

Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Thanh T, bà Phạm Thị L, chị Lê Thị Hồng P, chị Trần Phạm Thu N, Trần Lê Phương U là: Ông Nguyễn Hữu M1.

5/ Anh Nguyễn Mạnh T1, sinh năm 1974; Cư trú tại: 1 W, Kingsford NSW 2032, Australia; Địa chỉ liên hệ: DS4-6 R, phường T, quận G, Thành phố H.

6/ Văn phòng Thừa phát lại Thành phố H; Địa chỉ: số nhà A, đường N, Phường A, quận B, Thành phố H.

Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị S1, ông Trần Thanh T, bà Trần Phạm Thu N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai của phía nguyên đơn ông Nguyễn Văn S do bà Trần Thị Như M đại diện theo ủy quyền trình bày:

Cha mẹ ông S là cụ Nguyễn Văn T2 (chết năm 1989) và cụ Trần Thị N1 (chết năm 1992), hai cụ chết không để lại di chúc, hai cụ có hai người con là ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị S1.

Sinh thời, hai cụ có tạo lập một phần đất có tổng diện tích là 9.506m2 thuộc các thửa đất 116, 117, 118 cùng tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre (trong đó, thửa 116 diện tích 6.720m2, thửa 117 diện tích 805m2, thửa 118 diện tích 1981m2).

Ngày 13/11/1998, bà S1 có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất. Ngày 29/3/1999, Ủy ban nhân dân xã A lập giấy xác nhận nguồn gốc đất, trong đó nêu rỗ các thửa 116, 117, 118 có nguồn gốc là “đất của cha Nguyễn Văn T2 để lại sử dụng do thừa kế”. Ngày 21/6/1999, Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà S1 đối với hai thửa 117, 118 còn thửa 116 thì chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bà Nguyễn Thị S1 là người kê khai địa chính thửa đất này.

Ngày 17/10/2014, tại Văn phòng Thừa phát lại quận B, Thành phố H, trước sự chứng kiến của Thừa phát lại, bà Nguyễn Thị S1 và ông Nguyễn Văn S đã lập “Tờ tường trình về phần đất của cha mẹ để lại là tài sản chung chưa chia” kèm theo Vi bằng số 213/2014/VB-VPTPLBT để ghi nhận sự kiện, hành vi với nội dung chính: Phần đất thuộc thừa 116, 117 và 118 nêu trên là tài sản chung của cha mẹ chết để lại, là tài sản chung của ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị S1, đây là tài sản chung chưa chia. Hiện nay, bà Nguyễn Thị S1 đã lập thủ tục điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp riêng cho cá nhân bà thành tài sản chung của bà và ông S để bà và ông S cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của khối tài sản chung này”.

Cùng ngày 17/10/2014, cũng tại Văn phòng thừa phát lại quận B, Thành phố H, trước sự chứng kiến của Thừa phát lại, bà Nguyễn Thị S1 đã lập “Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia” kèm theo Vi bằng số 214/2014/VB- VPTPLBT để ghi nhận sự kiện, hành vi với nội dung chính: “Phần đất thuộc các thửa 116, 117 và 118 là di sản thừa kế của cha mẹ chết để lại đến nay chưa phân chia, dù đã hết thời hiệu chia thừa kế theo quy định của pháp luật”.

Sau khi lập Tờ tường trình và Tờ thỏa thuận nêu trên ông S đã nhiều lần yêu cầu bà S1 thực hiện việc phân chia tài sản chung nhưng bà S1 không thực hiện, đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Nay ông Nguyễn Văn S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia cho ông nhận diện tích đất thuộc các thửa 116, 117, 118, tờ bản đồ 18, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre. Nguyên đơn đồng ý với việc Tòa án sử dụng kết quả định giá, xem xét thẩm định và đo đạc ngày 07/9/2016 để giải quyết vụ án và không có yêu cầu định giá, xem xét thẩm định và đo đạc lại.

Theo đơn và lời khai của phía bị đơn bà Nguyễn Thị S1 do ông Nguyễn Hữu M1 đại diện theo ủy quyền trình bày:

Năm 1978, xã A, huyện B thực hiện cải tạo đất trang trải đất nông nghiệp cho người dân sản xuất. Thời điểm này, chính quyền xã cấp đất cho bà S1 và hai con là Trần Thanh T, Trần Thị Phương M2 và một suất Liệt sĩ cho chồng bà S1 để sản xuất. Đất cấp thuộc hạng I, năng suất 03 tấn/ha, vị trí đất được cấp ở ngoài Đ, xã A. Gia đình bà S1 canh tác trên phần đất này đến năm 1980 thì đưa vào Tập đoàn sản xuất. Năm 1990, do Tập đoàn làm ăn không hiệu quả nên Nhà nước thực hiện chủ trương giao khoán đất lại cho từng người dân để canh tác, bà S1 được giao nhận phần đất có nguồn gốc của ông bà là 116, 117, 118. Thời điểm này hộ bà S1 có thêm 02 nhân khẩu là anh Trần Thanh S2, chị Trần Phạm Thu N nhưng bà S1 không nhận thêm đất mà chỉ giữ nguyên hiện trạng trên phần đất nhà đế quản lý, sử dụng.

Sau đó, bà S1 đăng ký, kê khai đối với toàn bộ diện tích khoảng 9.506m2 thuộc các thửa 116, 117 và 118, tờ bản đồ số 18 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai thửa là 117 và 118 diện tích 2.786m2 ngày 21/6/1999. Đối với thửa 116 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bà S1 vẫn là người quản lý, sử dụng phần đất này. Việc Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình bà S1 là đúng với quy định do đó bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu nhận 1/2 diện tích đất tranh chấp.

Bà Nguyễn Thị S1 yêu cầu hủy 02 Vi bằng số 213/2014/VB - VPTPL ngày 17/10/2014 và Vi bằng số 214/2014/VB - VPTPL ngày 17/10/2014 được lập tại Văn phòng Thừa phát lại quận B. Lý do: Nguồn gốc đất được thể hiện trong vi bằng là do nhà nước cấp cho hộ gia đình gồm Trần Thanh T, Trần Thị Phương M2 (đã chết năm 2008), bà Trần Thị N1, Trần Thanh S2 và Trần Phạm Thu N, ông Trần Văn H và bà Nguyễn Thị S1. Bà Nguyễn Thị S1 là đại diện cho hộ gia đình. Bà S1 là chị ruột của ông Nguyễn Văn S, năm 2013 bà S1 lên đám giỗ nhà ông S, ông S đã giữ bà S1 lại nhà ông S trong thời gian khoảng 18 tháng, ông S đã ép buộc bà S1 lập 02 vi bằng số 213/2014/VB-VPTPL ngày 17/10/2014 và số 214/2014/VB - VPTPL ngày 17/10/2014. Do nội dung trong vi bằng thể hiện không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người trong hộ, bên cạnh đó bà S1 không biết đất trên được nhà nước cấp cho hộ gia đình.

Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì phía bị đơn yêu cầu Tòa án xác định bồi hoàn giá trị cây trồng cho bà Nguyễn Thị S1, ông Trần Thanh T, anh Trần Thanh S2 và chị Trần Phạm Thu N. Do anh S2 đã chết nên việc bồi hoàn cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của anh Trần Thanh S2. Đối với công trình trên đất là nhà của cụ T2, cụ N1 mặc dù khi quản lý, sử dụng bà S1 cũng có tu sửa thêm nhưng nay không có yêu cầu Tòa án xem xét phần công tu sửa nhà mà vẫn đồng ý xác định toàn bộ công trình trên đất là của cụ T2, cụ N1 để lại. Hiện tại bà S1 không còn sinh sống tại ngôi nhà này mà về sinh sống cùng gia đình ông T tại thị trấn B nên ngôi nhà này cũng đã xuống cấp trầm trọng.

Bà S1 đồng ý chia phần đất thuộc thửa 117 và giá trị công trình trên đất thuộc thửa 117 cho ông S và bà S1. Theo đó, bà S1 nhận 70% diện tích và giá trị công trình trên đất và ông S nhận 30% diện tích và giá trị công trình trên đất do bà S1 là người trực tiếp chăm sóc nuôi cha mẹ và quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp. Bị đơn đồng ý với việc Tòa án sử dụng kết quả định giá, xem xét thẩm định và đo đạc ngày 07/9/2016 để giải quyết vụ án và không có yêu cầu định giá, xem xét thẩm định và đo đạc lại.

Theo đơn và lời khai của người có quyền, nghĩa vụ liên quan Ông Trần Thanh T, bà Phạm Thị L, chị Trần Phạm Thu N và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của anh Trần Thanh S2 trình bày:

Ông T, bà L, chị N và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của anh Trần Thanh S2 thống nhất lời trình bày của bà S1. Về cây trồng trên đất tranh chấp là do bà S1, ông T, chị N, anh S2 trồng nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S thì yêu cầu ông S phải bồi hoàn giá trị cây trồng cho bà S1, ông T, chị N và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của anh S2 đối với phần đất mà ông S được nhận, ngoài ra không có yêu cầu nào khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyên Mạnh T1 trình bày:

Ông là con ruột của ông S và là cháu ruột của bà S1. Trước đây, khi ông đang cư ngụ tại Úc, ông đã gửi tiền về xây dựng, sửa chữa lại căn nhà thờ tự trên thửa đất 117 hiện do bà S1 đang quản lý. Khi biết việc tranh chấp giữa ông S và bà S1 thì ông có ý kiến không chia căn nhà thờ tự nêu trên.

Ông thống nhất với lời trình bày và nội dung khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, ông đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết không chia tài sản là căn nhà thờ trên thửa đất 117, tờ bản đồ số 18, tọa lạc xã A, huyện B để ông làm nơi thờ cúng tổ tiên nhưng ông chỉ nêu ý kiến và không yêu cầu độc lập trong vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Thừa phát lại Thành phố H trình bày:

Ngày 17/10/2014, bà Nguyễn Thị S1 và ông Nguyễn Văn S có đến Văn phòng Thừa phát lại quận B để yêu cầu Thừa phát lại lập Vi bằng ghi nhận hành vi ký tên vào văn bản “Tờ tường trình về phần đất của cha mẹ để lại là tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 của bà Nguyễn Thị S1 và ghi nhận hành vi ký tên vào văn bản “Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 giữa ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị S1.

Theo đó, trước sự chứng kiến của Thừa phát lại: Bà Nguyễn Thị S1 trong trạng thái minh mẫn đã hoàn toàn tự nguyện ký tên vào văn bản “Tờ tường trình về phần đất mẹ để lại là tải sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 (Vi băng số 213/2014/VB-VPTPLBT ngày 17/10/2014). Sau đó, trước sự chứng kiến của Thừa phát lại: Bà Nguyễn Thị S1 và ông Nguyễn Văn S trong trạng thái minh mẫn đã hoàn toàn tự nguyện ký tên vào văn bản “Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 (Vi bằng số 214/2014/VB-VPTPLBT ngày 17/10/2014).

Tháng 12/2015, Văn phòng Thừa phát lại quận B có nhận được Đơn yêu cầu về việc hủy bỏ “Tờ tường trình về phần đất của cha mẹ đế lại là tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 và “Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 được lập vi bàng ngày 17 tháng 10 năm 2014 của bà Nguyễn Thị S1 (kèm theo Giấy khám sức khỏe của bà Nguyễn Thị S1 và các Giấy xác nhận về tinh thần, sức khỏe của bà S1).

Ngày 23/12/2015, Văn phòng Thừa phát lại Quận B gửi Giấy mời cho bà S1 đến trụ sở của văn phòng để làm việc. Tuy nhiên, không thấy bà S1 có phản hồi gì.

Tháng 8/2016, ông Trần Hữu C (đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị S1 theo Giấy ủy quyền ngày 29/7/2016) có đến Văn phòng để xin sao lục 02 Vi bằng nói trên. Văn phòng đã chấp nhận và sao lục cho ông C mỗi Vi bằng 02 bộ.

Đối với việc lập hai Vi bằng nói trên, Thừa phát lại chỉ chứng kiến hành vi các bên ký tên vào “Tờ tường trình về phần đất của cha mẹ để lại là tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 và “Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 mà không xác nhận nội dung của hai văn bản này. Nội dung của hai văn bản này là do các bên tự soạn và chịu trách nhiệm, vi bằng có giá trị là chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và không thay thế văn bản công chứng, chứng thực.

Do đó, việc yêu cầu hủy bỏ văn bản thỏa thuận “Tờ tường trình về phần đất mẹ để lại là tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 (Vi bàng số 213/2014/VB-VPTPLBT ngày 17/10/2014) và “Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia” lập ngày 17/10/2014 (Vi bằng số 214/2014/VB-VPTPLBT ngày 17/10/2014) theo Đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị S1 là hoàn toàn do ý chí của bà S1, Văn phòng Thừa phát lại quận B không có ý kiến gì về việc này và yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre giải quyết xét xử theo quy định của pháp luật và xin vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 06/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, đã tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn S về tranh chấp chia tài sản chung với bị đơn bà Nguyễn Thị S1.

Bà Nguyễn Thị S1 được nhận quản lý, sử dụng phần đất thuộc thửa ký hiệu 1, 2, 7, 8 có diện tích 4.817,8m2; trong đó thửa ký hiệu 1, 2 thuộc một phần thửa 118, tờ bản đồ 18; thửa ký hiệu 7, 8 thuộc một phần thửa 116, tờ bản đồ 18 (nay là một phần thửa 14, tờ bản đồ số 5), tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre và toàn bộ cây trồng trên đất.

Ông Nguyễn Văn S được nhận quản lý, sử dụng phần đất thuộc thửa ký hiệu 3, 4, 5, 6 có diện tích 4.037,6m2; trong đó thửa ký hiệu 3, thuộc một phần thửa 118, tờ bản đồ 18; thửa ký hiệu 4, 5 thuộc một phần thửa 117, tờ bản đồ 18; thửa ký hiệu 6, thuộc một phần thửa 116, tờ bản đồ 18 (nay là một phần thửa 14, tờ bản đồ số 5), tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre và toàn bộ cây trồng trên đất.

(Có họa đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).

Buộc ông Nguyễn Văn S phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S1, ông Trần Thanh T, chị Trần Phạm Thu N và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của anh Trần Thanh S2 gồm ông Trần Thanh T, bà Phạm Thị L, chị Lê Thị Hồng P, chị Trần Lê Uyên P1, chị Trần Lê Phương U số tiền 120.000.000đồng.

Buộc ông Nguyễn Văn S phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S1 1/2 giá trị ngôi nhà với số tiền 17.028.930đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Văn S được toàn quyền sở hữu ngôi nhà trên phần thửa ký hiệu 5, thuộc một phần thửa 117, tờ bản đồ 18 (nay thuộc một phần thửa 14, tờ bản đồ 5), tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre, nhà kết cấu: nhà trước cột gỗ, vách gỗ, nền gạch tàu, mái tole giả ngói; nhà sau cột dầm móng bê tông cốt thép, tường xây gạch chưa tô, nền tráng xi măng, mái tole; tường rào trụ dầm bê tông cốt thép, tường xây gạch 100 chưa tô, 06 cống nước bê tông.

(Có họa đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).

Các đương sự được quyền đăng ký, kê khai và được liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền dụng đất đối với phần đất được quản lý, sử dụng.

Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét thực hiện các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự khi có yêu cầu phù hợp với nội dung quyết định của bản án.

2/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S1 về yêu cầu tuyên bố vi bằng vô hiệu.

3/ Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 142/2022/QĐ-BPKCTT ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

4/ Về chi tố tụng: Ông Nguyễn Văn S tự nguyện nộp xong số tiền 9.174.300đồng.

5/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn S là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí. Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn S số tiền 15.600.000đồng tạm ứng án phí DSST, theo Biên lai thu số 0009946 ngày 07/4/2016 và số tiền 6.250.000đồng, theo Biên lai thu số 0009959 ngày 09/5/2016 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bến Tre.

Bà Nguyễn Thị S1 là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S1 số tiền 200.000 đồng tạm ứng án phí DSST, theo Biên lai thu số 0008510 ngày 15/8/2016 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận Bình Thạnh, Thành phố H.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Ngoài ra án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Phía bị đơn bà Nguyễn Thị S1 và người có quyền, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Thanh T, bà Trần Phạm Thu N làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm không thỏa đáng, gây thiệt hại cho phía các ông bà, yêu cầu phúc xử lại bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Phía nguyên đơn ông Nguyễn Văn S và Luật sư của ông S đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, vì cho rằng bản án sơ thẩm xét xử phù hợp với thực tế nguồn gốc sử dụng đất và đúng với quy định của pháp luật.

Phía bị đơn vắng mặt, Tòa án đã triệu tập hợp lệ theo luật định, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có văn bản xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H phát biểu quan điểm cho rằng, về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định, về nội dung: Viện kiểm sát đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị S1, ông Trần Thanh T, bà Trần Phạm Thu N đều làm trong hạn luật định nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo thì thấy:

[2.1] Nguồn gốc phần đất tranh chấp tại thửa 116, 117, 118 phía ông S và bà S1 đều xác định đất này do cha mẹ là của cụ T2, cụ N1 tạo lập từ trước năm 1975 để lại.

Căn cứ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia tại Vi bằng số 213 ngày 17/10/2014 và Vi bằng số 214 ngày 17/10/2014 Văn phòng Thừa phát lại quận B, Thành phố H, có nội dung: Bà Nguyễn Thị S1 xác nhận thửa đất 116, 117, 118 là tài sản của cha mẹ chết để lại, tài sản chung chưa chia giữa ông S và bà S1, theo đó bà S1 thống nhất sẽ điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đế ông S và bà cùng đứng tên đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Giai đoạn này bà S1, ông S chưa xảy ra mâu thuẫn và tranh chấp, nên những lời khai xác nhận nêu trên tại Văn phòng Thừa phát lại quận B mang tính chất khách quan cao, thể hiện ý chí của các bên tham gia theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 13/11/1998, bà S1 kê khai có nội dung: Thửa đất 489 tại Đ diện tích 1.040m2 nguồn gốc sử dụng đất thuộc thửa 116, 117, 118 là đất do ông bà để lại.

Căn cứ giấy xác nhận nguồn gốc đất bà S1 khai: Thửa 489 Đồng Ngang có diện tích 1.040m2 nguồn gốc đất là năm 1989 có cùng thửa 116, 117, 118 xã D là đất của cha là ông Nguyễn Văn T2 để lại sử dụng do thừa kế, được Ủy ban nhân dân xã A xác nhận ngày 29/03/1999 có với nội dung “các thửa đất kê khai của bà S1 là đúng”.

Khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận, bà S1 có đơn khiếu nại về việc ghi sai họ nên đề nghị điều chỉnh lại họ cho đúng, nhưng bà không có khiếu nại gì về lời khai nguồn gốc đất được xác nhận.

Xét, các văn bản nêu trên đều được xác nhận tại Ủy ban nhân dân xã H, như vậy bà S1 đã tự kê khai thông tin nguồn gốc thửa đất, để khẳng định các thửa đất nêu trên là thửa đất của cha là ông T2 để lại, điều này phù hợp với nội dung xác nhận của bà S1 trong hai Vi bằng được lập tại Văn phòng Thừa phát lại quận B, Thành phố H.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định nguồn gốc của các thửa đất nêu trên là của cụ T2, cụ N1 chết để lại là tài sản chung của ông S và bà S1 chưa chia, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S và chia tài sản chung, trong đó có xem xét đến công sức của người quản lý, tôn tạo đối với phía bà S1, nên bà được chia phần nhiều hơn là phù hợp.

[2.2] Đối với yêu cầu của bà S1 về việc đòi hủy các Vi bằng của Văn phòng Thừa phát lại quận B:

Văn phòng Thừa phát lại quận B có văn bản xác nhận ngày 17/10/2014, ông S, bà S1 có đến văn phòng yêu cầu lập vi bằng ghi nhận hành vi ký tên vào văn bản, xác định tờ trình về phần đất của cha mẹ để lại là tài sản chung chưa chia và Tờ thỏa thuận về tài sản chung chưa chia. Khi đó ông S và bà S1 hoàn toàn minh mẫn và tự nguyện ký tên vào văn bản, nên việc Văn phòng Thừa phát lại ghi nhận hành vi trên là đúng quy định pháp luật.

Phía bà S1 cũng đã thừa nhận bà có ký tên vào văn bản, nhưng bà cho rằng bị đe dọa, ép buộc, tại cấp sơ thẩm phía bà S1 không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ nào chứng minh có việc bị đe dọa, bắt buộc nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bà S1, là có căn cứ.

[2.3] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 24/7/2023, phía bà S1 có yêu cầu giám định lại chữ viết và xin định giá, đo vẽ lại đối với phần đất tranh chấp nêu trên.

Tòa án cấp phúc thẩm đã hoãn phiên tòa, và thông báo cho các đương sự đến tòa để thực hiện các thủ tục theo yêu cầu. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ khi hoãn phiên tòa phúc thẩm đến nay phía đương sự đã không đến để thực hiện các trình tự, thủ tục, theo quy định.

Đây là các quyền, nghĩa vụ của đương sự tại tòa. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở để tự thực hiện đối với những trình tự thủ tục này.

[2.4] Phía bị đơn kháng cáo, nhưng cũng không đưa ra được những tài liệu chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, ngoài những lời nại nêu trên, do đó không có cơ sở chấp nhận.

[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bà S1 là người cao tuổi nên được miên nộp án phí DSPT. Ông Trần Thanh T, bà Trần Phạm Thu N mỗi người phải nộp số tiền 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm theo luật định.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 308 Bộ Luật tố tụng Dân sự.

 Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị S1, bà Trần Thanh T, bà Trần Phạm Thu N. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng các Điều 34, Điều 35, Điều 37; Điều 227 Bộ Luật tố tụng Dân sự 2015; Tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Các Điều 214, Điều 217, Điều 223, Điều 224 Bộ luật Dân sự 2005; Các Điều 210, Điều 216, Điều 218, Điều 219 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn S về tranh chấp chia tài sản chung với bị đơn bà Nguyễn Thị S1.

Bà Nguyễn Thị S1 được nhận quản lý, sử dụng phần đất thuộc thửa ký hiệu 1, 2, 7, 8 có diện tích 4.817,8m2; trong đó thửa ký hiệu 1, 2 thuộc một phần thửa 118, tờ bản đồ 18; thửa ký hiệu 7, 8 thuộc một phần thửa 116, tờ bản đồ 18 (nay là một phần thửa 14, tờ bản đồ số 5), tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Ben Tre và toàn bộ cây trồng trên đất.

Ông Nguyễn Văn S được nhận quản lý, sử dụng phần đất thuộc thửa ký hiệu 3, 4, 5, 6 có diện tích 4.037,6m2; trong đó thửa ký hiệu 3, thuộc một phần thửa 118, tờ bản đồ 18; thửa ký hiệu 4, 5 thuộc một phần thửa 117, tờ bản đồ 18; thửa ký hiệu 6, thuộc một phần thửa 116, tờ bản đồ 18 (nay là một phần thửa 14, tờ bản đồ số 5), tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Ben Tre và toàn bộ cây trồng trên đất.

(Có họa đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).

Buộc ông Nguyễn Văn S phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S1, ông Trần Thanh T, chị Trần Phạm Thu N và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của anh Trần Thanh S2 gồm ông Trần Thanh T, bà Phạm Thị L, chị Lê Thị Hồng P, chị Trần Lê Uyên P1, chị Trần Lê Phương U số tiền 120.000.000 đồng.

Buộc ông Nguyễn Văn S phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S1 Vi giá trị ngôi nhà với số tiền 17.028.930đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Văn S được toàn quyền sở hữu ngôi nhà trên phần thửa ký hiệu 5, thuộc một phần thửa 117, tờ bản đồ 18 (nay thuộc một phần thửa 14, tờ bản đồ 5), tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre, nhà kết cấu: nhà trước cột gỗ, vách gỗ, nền gạch tàu, mái tole giả ngói; nhà sau cột dầm móng bê tông cốt thép, tường xây gạch chưa tô, nền tráng xi măng, mái tole; tường rào trụ dầm bê tông cốt thép, tường xây gạch 100 chưa tô, 06 cống nước bê tông.

(Có họa đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).

Các đương sự được quyền đăng ký, kê khai và được liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền dụng đất đối với phần đất được quản lý, sử dụng.

Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét thực hiện các thủ tục đê cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự khi có yêu cầu phù hợp với nội dung quyết định của bản án.

2/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S1 về yêu cầu tuyên bố vi bằng vô hiệu.

3/ Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Thanh T, bà Trần Phạm Thu N mỗi người phải nộp số tiền 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí kháng cáo theo các Biên lai thu số 0001761 và sô 0001760 ngày 13/01/2023 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bến Tre. Như vậy, ông T, bà N đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.

4/ Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

5/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp tài sản chung và yêu cầu hủy vi bằng của văn phòng thừa phát lại số 648/2023/DS-PT

Số hiệu:648/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về