Bản án về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất số 156/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 156/2021/DS-PT NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 24 và ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 77/2020/TLPT-DS ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất)”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 58/2019/DS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 137/2021/QĐPT-DS ngày 01 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trương Phương T, sinh năm 1970 (vắng mặt). Địa chỉ: x Interlacken DRBrampton ONT 16X Ow7 - Canada. Tạm trú: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Trương Hồng Y, sinh năm 1963 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 62 đường Đ, Phường 8, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.

(Văn bản ủy quyền ngày 20/11/2014) Người đại diện theo ủy quyền của bà Trương Hồng Y: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1959 (có mặt).

Địa chỉ: 107A, khóm 5, Phường 2, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. (Văn bản ủy quyền ngày 14/12/2020)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Minh T2 - Luật sư của Văn phòng Luật sư Phạm Minh T2, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Long (có mặt).

- Bị đơn:

1/ Bà Đặng Thiếu N, sinh năm 1947 (có mặt)

2/ Ông Ngô Văn C, sinh năm 1941 (có mặt)

3/ Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Trương Thị U (chết ngày 18/12/2019)

3.1. Bà Trần Thái H, sinh năm 1960 (có mặt)

3.2. Bà Trần Huệ L (vắng mặt).

3.3. Ông Trần Chí Đ (vắng mặt).

3.4. Bà Trần Huệ V (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

3.5. Ông Trần Chí K (vắng mặt).

3.6. Ông Trần Chí C1 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp L, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

3.7. Ông Trần Chí T3 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp MD, xã P, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

3.8. Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông Trần Chí L1 (con của ông K1 bà U) là bà Trần Thục N1, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long

Người đại diện theo ủy quyền của bà L, ông Đ, bà V, ông K, ông C1, ông T3, bà N1: Bà Trần Thái H, sinh năm 1960 (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long (Các văn bản ủy quyền ngày 19/6/2020 và ngày 18/3/2021)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ, liên quan:

1. Ông Nguyễn Minh T4, sinh năm: 1994 Địa chỉ: 6 Interlecken DRBrampton ONT 16X Ow7- Canada (vắng mặt)

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Minh T4: Bà Trương Hồng Y, sinh năm 1963 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 62 đường Đ, Phường 8, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (Văn bản ủy quyền ngày 12/4/2014)

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trương Hồng Y: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1959 (có mặt).

Địa chỉ: 107A, khóm 5, Phường 2, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (Văn bản ủy quyền ngày 14/12/2020)

2. Ông Nguyễn Văn T5, sinh năm: 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long

- Người kháng cáo: nguyên đơn là bà Trương Phương T (có bà Trương Hồng Y đại diện theo ủy quyền).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/12/2014 và toàn bộ lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Phần đất của bà Trương Phương T thuộc thửa 130, diện tích 6.000 m2, loại đất thổ vườn, tọa lạc tại Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long. Hiện nay phần đất thửa 130 của nguyên đơn bị các bị đơn lấn chiếm, cụ thể như sau:

- Bà Đặng Thiếu N đang sử dụng thửa đất số 128, tờ bản đồ só 8 đã lấn sang phần đất thửa 130 của nguyên đơn là 22,6 m2 (đo đạc thực tế là 12,4 m2). Trên phần đất tranh chấp có một cây bàng do bà N trồng. Ngoài ra còn có một nhà bếp của bà Đặng Thiếu N.

- Ông Ngô Văn C đang sử dụng thửa đất số 129, tờ bản đồ số 8 đã lấn sang phần đất thửa 130 của nguyên đơn là 72,6 m2 (đo đạc thực tế là 29,5 m2). Trên phần đất tranh chấp có 2,9m2 công trình phụ của ông Ngô Văn C đang sử dụng.

- Bà Trương Thị U đang sử dụng thửa đất số 123 đã lấn sang phần đất thửa 130 của nguyên đơn là 87,7 m2.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu như sau:

- Yêu cầu bà Đặng Thiếu N trả lại phần đất lấn chiếm theo đo đạc thực tế là 12,4 m2. Đồng thời bà N phải di dời cây trồng và vật kiến trúc trên phần đất tranh chấp. Nguyên đơn không đồng ý bồi thường chi phí di dời.

- Yêu cầu ông Ngô Văn C trả lại phần đất lấn chiếm theo đo đạc thực tế là 29,5 m2. Đồng thời ông C phải di dời cây trồng và vật kiến trúc trên phần đất tranh chấp. Nguyên đơn không đồng ý bồi thường chi phí di dời.

- Yêu cầu bà Trương Thị U trả lại phần đất lấn chiếm theo đo đạc thực tế là 82,7 m2. Đồng thời bà U phải di dời cây trồng trên phần đất tranh chấp. Nguyên đơn không đồng ý bồi thường chi phí di dời.

Tại đơn tường trình ngày 26/01/2015 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Đặng Thiếu N trình bày.

Phần đất của bà Đặng Thiếu N thuộc thửa 128 (thửa cũ 70A, 70B), tờ bản đồ số 4, diện tích 90m2 tọa lạc tại Ấp C, xã M, huyện T do bà Đặng Thiếu N đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn gốc phần đất do bà nhận chuyển nhượng của ông Trương Bửu Lâm. Sau khi mua đất thì bà cất nhà, khi đó bà có nhờ ông Trương Ngọc Lương (cha của nguyên đơn) chỉ ranh đất. Phần đất của bà N giáp với thửa đất 130 của nguyên đơn. Nay bà không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn vì bà không có lấn chiếm đất. Bà không yêu cầu đo đạc lại phần đất đã tranh chấp, cũng không thống nhất theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 14/12/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long.

Tại đơn tường trình ngày 26/01/2015 và các lời khai trong quá trình giải quyêt vụ án, bị đơn Ngô Văn C trình bày.

Phần đất của ông thuộc thửa 129, diện tích 330m2, tọa lạc tại Ấp C, xã M, huyện T do ông Ngô Văn C đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất của ông giáp ranh với thửa 130 của nguyên đơn. Ông đã sử dụng phần đất này trên 40 năm từ năm 1978. Ông không có lấn đất của nguyên đơn. Ranh đất giữa ông với nguyên đơn hiện tại vẫn còn 03 cây dừa khoảng từ 30 năm dển 40 năm. Ông có cất căn nhà bếp xây năm 1987 sát ranh mương với nguyên đơn nhưng bà T đã sang lấp phần mương có từ xưa nên nguyên đơn chỉ ranh là không chính xác. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà T, ông không đồng ý. Ông không yêu cầu đo đạc lại phần đất tranh chấp, cũng không thống nhất theo theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 14/12/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long.

Tại biên bản hòa giải ngày 12/11/2015 và các lời khai trong quả trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Trương Thị U ủy quyền cho bà Trần Thái H trình bày.

Phần đất của bà Trương Thị U thuộc thửa 123, diện tích 3.180m2, tọa lạc tại Ấp C, xã M, huyện T do ông Trần Kiệt (chồng bà Ứng) đứng tên trong sổ bộ địa chính. Phần đất của bà U giáp ranh với thửa 130 của nguyên đơn. Nay bà U không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn vì giữa ranh đất của bà U với bà T có xây dựng hàng rào kẽm gai cột bê tông được xây dựng từ khoảng 30 năm đến 40 năm, từ hàng rào đến ranh đất của bà T là mương bề ngang khoảng 6 mét.

Diện tích phần đất của nguyên đơn luôn tăng qua các thời kỳ, bà H sẽ cung cấp các kết quả đo đạc chứng minh về việc diện tích đất của nguyên đơn tăng lên cho Tòa án. Bà không yêu cầu đo đạc lại phần đất đã tranh chấp, cũng không thống nhất theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 14/12/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thái H trình bày: Thống nhất với ý kiến của bà Trương Thị Ứng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2019/DS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Phương T về việc yêu cầu bà Đặng Thiếu N phải trả cho bà Trương Phương T phần đất diện tích 12,4m2. Yêu cầu ông Ngô Văn C phải trả cho bà Trương Phương T phần đất diện tích 29.5 m2. Yêu cầu bà Trương Thị U và những người thừa kế của ông Trần Kiệt phải trả cho bà Trương Phương T phần đất diện tích 82,7m2.

- Công nhận cho bà Đặng Thiếu N được quản lý, sử dụng, kê khai phần đất diện tích 12,4m2, loại đất vườn, thuộc thửa 130 của bà Trương Phương T gồm các mốc 16, 17, E, D 16.

- Công nhận cho ông Ngô Văn C được quyền quản lý, sử dụng và kê khai phần đất diện tích 29,5m2, loại đất vườn, thuộc thửa 130 của bà Trương Phương T đứng tên giấy chứng nhận đất, gồm các mốc 17, 18, 19, 20, F, E, 17.

- Công nhận cho bà Trương Thị U và những người thừa kế của ông Trần Kiệt được quyền quản lý, sử dụng và kê khai phần đất diện tích 82,7m2 loại đất vườn gồm các mốc 4, 5, 6, 20, 4.

Kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 14/12/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long.

Các đương sự có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/12/2019, nguyên đơn là bà Trương Phương T (do bà Trương Hồng Y đại diện theo ủy quyền) kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm :

Nguyên đơn là bà Trương Phương T (có đại diện theo ủy quyền là bà Trương Hồng Y, bà Y ủy quyền lại cho ông Nguyễn Văn T1) vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với chứng cứ là Tờ trích đo bản đồ địa chính khu đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long lập ngày 14/12/2015, xác định các bị đơn có lấn chiếm đất của nguyên đơn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là Luật sư Phạm Minh T2 phát biểu ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì: Bị đơn cho rằng sử dụng đất lâu năm là không có căn cứ do đến năm 2004 mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, Tờ trích đo bản đồ địa chính khu đất thể hiện có sự lấn chiếm đất của các bị đơn.

Bị đơn là bà Đặng Thiếu N, ông Ngô Văn C, và những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Trương Thị U (có bà Trần Thái H đại diện theo ủy quyền), không đồng ý yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm. Đồng thời, khai nhận diện tích đất các bị đơn sử dụng lâu dài hơn 30 năm, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bản vẽ nguyên đơn cung cấp được lập sau này là không chính xác, khi đó các bị đơn đã không đồng ý vì trước đó diện tích nguyên đơn sử dụng đã bị sạt lở một phần, các bị đơn không lấn chiếm đất của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn T5 vắng mặt. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án vắng mặt đương sự này.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn là bà Trương Phương T (có ông Tâm đại diện theo ủy quyền) kháng cáo yêu cầu các bị đơn là bà Đặng Thiếu N, ông Ngô Văn C, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Trương Thị U trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm tại thửa 130 tọa lạc tại Ấp C, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

[3] Các bị đơn bà N, ông C, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Trương Thị U (có bà Trần Thái H đại diện theo ủy quyền) trình bày cho rằng phần đất thuộc thửa 123, 128, 129 đã được công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho bị đơn. Năm 1993 bà N, ông C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 128, 129. Thửa 123 do ông Trần Kiệt đứng tên trong sổ bộ địa chính. Các bị đơn đã quản lý, sử dụng ổn định phần đất theo đúng ranh với thửa 130. Trước đây, đất của nguyên đơn bị sạt lỡ nên diện tích bị thiếu chứ các bị đơn không có lấn chiếm nên không đồng ý yêu ầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

[4] Hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc đất:

- Thửa đất 130 do bà Đỗ Thị Điệp (mẹ bà T) đứng tên kê khai trong sổ mục kê và sổ đăng ký ruộng đất. Năm 1997, bà T nhận chuyển nhượng của bà Điệp. Năm 2001, bà T được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Mang Thít cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 6.000 m2. Sau khi bị thu hồi năm 2016, diện tích đất còn lại là 5.770 m2.

- Thửa đất 128 diện tích 90m2 do bà N nhận chuyển nhượng từ ông Trương Bửu Lâm, được UBND huyện Mang Thít cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993.

- Thửa đất 129 diện tích 330 m2 ông C được UBND huyện Mang Thít cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993.

- Thửa đất 123 diện tích 3.180m2 do ông Trần Kiệt đứng tên trong sổ địa chính.

[5] Xét thấy, nguyên đơn, bị đơn đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc ghi nhận quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất đang quản lý sử dụng. Nguyên đơn khởi kiện cho rằng trong quá trình sử dụng, các bị đơn đã có hành vi lấn chiếm thửa 130. Do đó, quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp quyền sử dụng đất về ranh đất và việc xác định ranh giới giữa các phần đất liền kề là cơ sở để giải quyết vụ án.

[6] Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định giữa các phần đất liền kề trước đây có trụ ranh nhưng không nhớ chính xác mốc ranh. Các bị đơn cho rằng hiện nay ranh giới giữa các thửa đất vẫn còn. Đối với thửa 128 là ranh nhà của bà N, vì khi xây dựng nhà, bà N có nhờ ông Trương Ngọc Lương (cha của nguyên đơn) chỉ ranh; Thửa 129 là 03 cây dừa khoảng 30-40 năm tuổi; Thửa 123 là hàng rào kẽm gai cột bê tông được xây dựng khoảng 30 - 40 năm, từ hàng rào đến đất của bà T là mương bề ngang khoảng 6 mét. Như vậy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ lời trình bày này của các đương sự mà chỉ căn cứ vào việc nguyên đơn không xác định được ranh đất để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là chưa đủ cơ sở vững chắc.

[7] Mặt khác, khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, trong trường hợp các đương sự không xác định được hoặc không thống nhất trong việc chỉ dẫn ranh giới đất giữa các thửa đất liền kề, Toà án vẫn có thể thu thập tài liệu chứng cứ tại cơ quan quản lý đất đai liên quan đến phần đất tranh chấp. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ khảo sát và định giá tài sản trên đất, mà không có xem xét thẩm định hiện trạng phần ranh giới giữa các thửa đất, đối chiếu với ranh giới thể hiện trên bản đồ địa chính nên chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án.

[8] Theo Trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 14/12/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long, diện tích đất thửa 130 là 5.646,5m2, thửa 128 là 74,6m2, thửa 129 là 440,4m2, do bà Trần Thái H (đại diện theo ủy quyền của bà U ở cấp sơ thẩm) không chỉ hết ranh nên không xác định được diện tích thực tế thửa 123. So với diện tích mà đương sự được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các thửa 130, 128 có biến động giảm, thửa 129 có biến động tăng. Ngoài ra, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà T đối với thửa 130 vào năm 2001 có sau giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà N (thửa 128), ông C (thửa 129) năm 1993. Khi nhận chuyển nhượng thửa 130, bà T chỉ căn cứ vào quyền sử dụng đất mà bà Điệp được công nhận trên sổ đăng ký ruộng đất, mà không có đo vẽ thực tế. Như vậy, không loại trừ trường hợp có sự chồng lấn ranh hoặc không đúng diện tích thực tế trong các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Do đó, cần thu thập hồ sơ tài liệu liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất có tranh chấp để xác định chính xác diện tích mà đương sự được công nhận quyền sử dụng. Hơn nữa, để giải quyết triệt để toàn diện vụ án này, lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành áp ranh các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại với nhau. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm không thực hiện, từ đó xét xử bác yêu cầu khởi kiện là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, chưa đảm bảo quyền lợi của đương sự.

[9] Các bị đơn là bà N, ông C, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà U đều trình bày quản lý sử dụng các thửa đất đúng như ranh giới, quyền sử dụng đất đã được công nhận. Nguyên đơn bà T cũng trình bày cho rằng đã sử dụng đất từ năm 1997, trước đó do cha mẹ của nguyên đơn sử dụng. Tuy nhiên, kết quả đo đạc Trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 14/12/2015 thể hiện phần đất bà N sử dụng có 12,4m2 thuộc thửa 130; phần đất ông C sử dụng có 29,5m2 thuộc thửa 130; phần đất bà U có 82,7m2 không xác định được thuộc thửa nào do bà Trần Thái H không chỉ hết ranh đất. Kết quả khảo sát của Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện trên thửa 130 có cây trồng và công trình phụ do các bị đơn xây dựng. Tuy nhiên, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ quá trình sử dụng đất của các đương sự, vì sao trên thửa 130 có cây trồng, công trình phụ của bị đơn; khi bị đơn hình thành tài sản trên, nguyên đơn có ý kiến hay không? Mặt khác, cần thu thập chứng cứ làm rõ diện tích đất nguyên đơn sử dụng từ trước đến khi tiến hành đo vẽ có bị sạt lở hay không. Do đó, chưa đủ cơ sở vững chắc để đánh giá giải quyết vụ án một cách toàn diện.

[10] Ngoài ra, nguyên đơn khởi kiện buộc các bị đơn trả lại diện tích đang lấn chiếm thuộc thửa 130, đã được UBND huyện Mang Thít cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn. Các bị đơn có ý kiến trình bày không đồng ý yêu cầu khởi kiện, nhưng không có yêu cầu phản tố đề nghị công nhận quyền sử dụng đối với phần đất đang tranh chấp. Tuy nhiên, phần Quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên xử công nhận phần đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bị đơn, các đương sự được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự.

Cần lưu ý, trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết công nhận quyền sử dụng đất cho một bên đương sự, cần phải xem xét xử lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp liên quan đến diện tích đất trên và đưa UBND huyện T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[11] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để làm căn cứ giải quyết vụ án mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Lập luận này cũng là cơ sở để không chấp nhận đề nghị giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[12] Án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên người kháng cáo là bà Trương Phương T (có bà Trương Hồng Y đại diện theo ủy quyền) không phải chịu theo quy định án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định pháp luật.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trương Hồng Y là đại diện theo ủy quyền của bà Trương Phương T không phải chịu. Hoàn trả cho bà Trương Hồng Y số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0002523 ngày 11/12/2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Long.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất số 156/2021/DS-PT

Số hiệu:156/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về