Bản án về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất số 115/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 115/2022/DS-PT NGÀY 04/04/2022 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 04/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2021/TLPT-DS ngày 19 tháng 5 năm 2021, về việc “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2021/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 162/2021/QĐ-PT ngày 01 tháng 6 năm 2021; Thông báo mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm số 21/TB-TA ngày 26/01/2022, giữa:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1968;

Địa chỉ: Số, ấp AL, xã ĐA, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Th: Luật sư Nguyễn Văn H- Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn H thuộc đoàn luật sư tỉnh Đồng Tháp.

* Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1964;

Địa chỉ: Số, ấp AL, xã ĐA, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp;

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị Kim L1, sinh năm 1969;

2. Anh Nguyễn Nhựt Tr, sinh năm 1992;

3. Chị Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1995;

Cùng địa chỉ: Số, ấp AL, xã ĐA, huyện Lấp V, Đồng Tháp.

4. Anh Nguyễn Chánh Nh, sinh năm 1988;

Địa chỉ: Ấp AL, xã ĐA, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp;

5. Anh Nguyễn Trung K, sinh năm 1977;

Địa chỉ: Ấp AL, xã ĐA, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp;

* Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thanh Th là nguyên đơn.

Chị Th, anh L và Luật sư có mặt tại phiên tòa. Chị L1, anh Tr, chị D có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh K, anh Nh vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Th trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 83, tờ bản đồ 15 diện tích trong giấy là 911,8m2, được UBND huyện Lấp Vò cấp ngày 13/3/2014 cho chị Nguyễn Thị Thanh Th đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do ông Nguyễn Trung H1 cho anh Nguyễn Hoàng Kh sau đó anh Kh chuyển nhượng cho chị Th vào năm 2013, do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông H1 đang đứng tên nên về thủ tục giấy tờ là ông H1 ký hợp đồng tặng cho chị Th, nhưng trên thực tế thì anh Kh là người chuyển nhượng và anh Kh nhận tiền chuyển nhượng của chị Th. Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Th thì không có đo đạc thực tế, căn nhà chị Th đang sử dụng sát ranh tranh chấp phía trước là của anh Kh xây dựng khoảng trước năm 1990, khi chị Th mua đất thì anh Kh bán luôn căn nhà trên cho chị Th sử dụng. Phần phía sau từ trụ cây (mốc M5) có cây trứng cá trở về sau thì anh L sử dụng từ trước đến nay.

Hàng rào lưới B40 hiện trạng từ gốc nhà chị Th (mốc M13) đến mốc M5 là do anh L rào vào khoảng năm 2016, khi anh L rào thì chị Th không khởi kiện đến chính quyền địa phương, chỉ nói với ông H1 biết. Con mương có trước khi chị Th nhận chuyển nhượng đất, từ trước đến đến nay chị Th cũng không có sử dụng con mương này mà phía anh L sử dụng. Phần đất tranh chấp phía sau thì anh K sử dụng để trồng bưởi chứ chị Th cũng không có sử dụng.

Nay chị Th khởi kiện anh L yêu cầu xác định ranh đất của chị Th từ các mốc do chị Th xác định khi Tòa án đo đạc thực tế cho đủ diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho chị Th.

* Bị đơn anh Nguyễn Thanh L trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 82, tờ bản đồ 15, trước đây là của ông Nguyễn Trung H1, sau đó ông H1 cho anh Nguyễn Trung T vào năm nào anh L không nhớ, đến năm 2019 thì anh T tặng cho anh L và anh L được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 82, tờ bản đồ số 15, diện tích trong giấy là 107,4m2, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có đo đạc thực tế do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp chính quy.

Nguồn gốc thửa đất số 669, tờ bản đồ 2a là của ông Nguyễn Trung H1 tặng cho anh Nguyễn Thanh L vào ngày 02/11/2006, anh L được cấp GCN QSD đất thuộc thửa 669, tờ bản đồ số 2a, diện tích trong giấy là 2.079m2 do anh Nguyễn Thanh L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đo đạc thực tế, tứ cận có ký giáp ranh. Hàng rào lưới B40 từ gốc nhà chị Th (mốc M13) đến mốc M5 do anh L rào vào năm 2006 đến nay. Phần đất đất tranh chấp phía sau hiện nay anh K đang trồng bưởi thì anh L không yêu cầu gì đối với anh K, vào năm 2006 anh L cho K sử dụng để trồng mận, sau đó trồng bưởi như hiện trạng hiện nay. Phần đất anh Nh đang cất nhà thì anh L cũng không yêu cầu gì đối với anh Nh, con mương nước cặp hàng rào B40 phía bên đất anh L từ trước đến nay anh L sử dụng để bơm nước tưới vườn, chị Th cũng không có sử dụng.

Anh Nguyễn Thanh L yêu cầu Tòa án xác định ranh đất của anh L theo hiện trạng sử dụng từ mốc M14, M13, M31, M5, M6. Còn phần đất thuộc kênh thủy lợi từ M6, M7, M8, M9 về M6 anh L không yêu cầu.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Trung K trình bày:

Anh K là em ruột chị Th và anh L, anh K đang sử dụng một phần đất phía sau để trồng bưởi, phần đất này hiện chị Th đang tranh chấp với anh L, trước đây vào khoảng năm 2006 anh K trồng mận, do anh L kêu anh K về ở và sử dụng, đến khoảng năm 2017 thì anh K đốn mận và trồng bưởi như hiện nay, lúc trồng thì không ai tranh cản anh K. Do phần đất này là của anh L cho anh K sử dụng từ trước đến nay, đề nghị Tòa án xét xử cho anh L, anh K không yêu cầu tách thửa sang tên cho anh K trong vụ án này.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Chánh Nh trình bày:

Vào năm 2018, anh Nh có xây dựng một căn nhà cấp 4 trên đất của anh L. Nay chị Th tranh chấp đất với anh L có vướng vào một phần căn nhà của anh Nh thì anh Nh yêu cầu Tòa án xét xử đất của anh L, anh Nh không yêu cầu tách thửa sang tên hay tranh chấp gì trong vụ án này.

Tại quyết định bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2021/DS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò đã tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh Th.

2. Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa số 83, tờ bản đồ số 15 (bản đồ địa chính chính quy) của bà Nguyễn Thị Thanh Th với thửa số 82, tờ bản đồ số 15 (bản đồ địa chính chính quy) và thửa 669, tờ bản đồ 2a (bản đồ giải thửa 299) của ông Nguyễn Thanh L, đất toạ lạc tại ấp ALạc, xã ĐAn, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp là đoạn thẳng nối từ mốc M14- M13- M31-M5 - M6 theo sơ đồ đo đạc phần đất tranh chấp ngày 08/3/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (Từ M14 – M13 là 20,05m, từ M13-M31 là 0,93m, từ M31- M5 là 33,65m, từ M5 - M6 là 8,83m). Ranh giới được sử dụng theo chiều thẳng đứng từ lòng đất đến không gian. Tài sản của các bên (nếu có) lấn chiếm ranh đất phải di đời theo quy định của pháp luật.

(Kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 20/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò và Sơ đồ đo đạc phần đất tranh chấp ngày 08/3/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).

Các đương sự được quyền đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng diện tích đất thực tế sử dụng.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Thanh Th phải nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 1.081.000đ (Một triệu không trăm tám mươi mốt nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà Th đã nộp là 2.025.000 đồng theo biên lai số BH/2018/0006448 ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò. Bà Nguyễn Thị Thanh Th còn được nhận lại số tiền 944.000đ (Chín trăm bốn mươi bốn nghìn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá: Bà Nguyễn Thị Thanh Th phải chịu toàn bộ số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 6.137.000đ (Sáu triệu một trăm ba mươi bảy nghìn đồng). Số tiền này bà Th đã nộp và chi xong.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về thời hạn, quyền kháng cáo và quyền, nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24 tháng 3 năm 2021 bà Nguyễn Thị Thanh Th là nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2021/DS- ST ngày 11 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Bà Nguyễn Thị Thanh Th yêu cầu hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm 12/2021/DS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, lý do cấp sơ thẩm không xác định định được hang rào được xây dựng vào năm nào mà chỉ căn cứ vào lời trình bày của ông L không nhớ. Nguồn gốc đất tranh chấp là của cha tôi là ông Nguyễn Trung H1 cho em tôi là Nguyễn Trung K và cháu là Nguyễn Chánh Nh không như lời trình bày của ông L. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định rõ.

Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Th trình bày, phần đất của chị Th chuyển nhượng của anh Nguyễn Hoàng Kh, nên đề nghị đưa anh Nguyễn Hoàng Kh tham gia tố tụng. Ông Nguyễn Trung H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ chính quy, sau đó ông H1 tiến hành thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất cho con là chị Nguyễn Thị Thanh Th, nên không có việc diện tích không chính xác như anh L trình bày. Về phía chị Th do tin tưởng anh L là anh ruột, nên nhờ anh L tiến hành thủ tục chuyển quyền sử dụng theo quy định và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của chị Th.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh, phát biểu việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành tốt quy định của pháp luật và đề xuất hướng giải quyết là không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thanh Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, được kiểm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Phần đất của chị Th và đất của anh L có nguồn gốc là của ông Nguyễn Trung H1. Ông H1 là cha của chị Th, anh L, anh Nguyễn Trung T và anh Nguyễn Hoàng Kh.

Ngày 02/11/2006, ông H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 668, diện tích 1.426m2, tờ bản đồ số 2a và anh L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 669, diện tích 2.079m2, tờ bản đồ số 2a.

Ngày 10/3/2011, ông H1 được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 668 thành thửa 05, diện tích 1.373,9m2, tờ bản đồ số 15.

Ngày 20/01/2014, ông H1 có đơn xin tách thửa số 05 thành 03 thửa gồm thửa 81, diện tích 354,7m2; thửa 82, diện tích 107,4m2 và thửa 83, diện tích 911,8m2 cùng tờ bản đồ số 15.

Phần đất thửa 82, ông H1 cho con là anh Nguyễn Trung T. Ngày 09/01/2019, anh T ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa 82 cho anh L và ngày 29/01/2019 anh L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 82, diện tích 107,4m2, tờ bản đồ số 15.

Phần đất của ông H1 thửa 83, ông H1 cho anh Nguyễn Hoàng Kh, nhưng ông H1 vẫn còn đứng tên. Năm 2013, anh Kh chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất thửa 83 cho chị Nguyễn Thị Thanh Th, nên ngày 21/02/2014, ông H1 ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho chị Th thửa 83, diện tích 911,8m2, tờ bản đồ số 15 và chị Th đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13/3/2014, thửa 83, diện tích 911,8m2, tờ bản đồ số 15.

Phần đất chị Th thửa 83, tờ bản đồ số 15 tiếp giáp với đất của anh L thửa 82, tờ bản đồ số 15 và thửa 669, diện tích 2.079m2, tờ bản đồ số 2a. Trong quá trình sử dụng chị Th cho rằng, anh L lấn chiếm phần đất của chị Th, nên xảy ra tranh chấp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Th xác định kháng cáo, yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của chị Th với đất của anh L là những đoạn thẳng nối từ các mốc M14, M13, M12, M11, M9, M6.

Anh L không đồng ý.

Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm, chị Th thừa nhận từ mốc M14 đến mốc M13 là tường rào do anh L xây dựng, có trước khi chị Th chuyển nhượng nhà đất của anh Kh. Tại biên bản hòa giải ngày 28/12/2020 và tại phiên tòa phúc thẩm, chị Th và anh L thống nhất xác định ranh tại vị trí mốc M14-M13, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với đoạn hàng rào lưới B40, từ mốc M13-M31-M5 chị Th cũng thừa nhận là anh L xây dựng vào năm 2016-2017, khi xây dựng chị Th cũng không có tranh chấp, nhưng có báo cho ông H1 là cha ruột biết. Tại biên bản phiên sơ thẩm chị Th khai: Khi anh L xây dựng hàng rào lưới B40 thì chị Th có nói cho ông H1, ông H1 nói nếu L lấn chút đỉnh cũng không sao, còn đối với mương nước chị Th thừa nhận từ trước đến nay anh L sử dụng mương nước. Đồng thời, tại phiên tòa sơ thẩm, chị Th cũng thừa nhận khi chuyển nhượng đất không có đo đạc, không rõ ranh đất đến vị trí nào, vì chị Th nhờ anh L là người tiến hành thủ tục chuyển nhượng đất, diện tích thực tế hiện nay thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên chị Th khởi kiện anh L. Do chị Th không biết được ranh đất, nên ngày 05/02/2020 Tòa án cấp sơ thẩm phối hợp với Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, nhưng không thực hiện việc xem xét thẩm định được, do chị Th không biết ranh đất (bút lục 45).

Theo công văn số 174/UBND-NC ngày 25/11/2020 của Ủy ban nhân dân huyện lấp Vò xác định: Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Thanh Th với diện tích 911,8m2 thuộc thửa 83, tờ bản đồ số 15..., cấp ngày 13/3/2014. Căn cứ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Thanh Th là cấp theo hồ sơ tặng cho từ cha ruột ông Nguyễn Trung H1. Trình tục thủ tục đảm bảo theo quy định tại thời điểm cấp giấy. Khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Thanh Th không có đo đạc thực tế (trích lục bản đồ địa chính) và không có giao đất ngoài thực địa (không có quy định).

Mặt khác, năm 2006 ông H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 668, tờ bản đồ số 2a, đến năm 2011 ông H1 được cấp đổi thửa 668 thành thửa số 05, tờ bản đồ sồ 15 thì hình thể thửa đất không giống nhau. Năm 2014, ông H1 có đơn xin tách thửa số 5 thành 03 thửa gồm thửa 81, diện tích 354,7m2; thửa 82, diện tích 107,4m2 và thửa 83, diện tích 911,8m2 cùng tờ bản đồ số 1. Thửa 83, ông H1 chuyển quyền sử dụng đất cho chị Th đứng tên. Chị Th cũng không chứng minh được khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đo đạc và anh L có ký tên.

Phần đất chị Th đang quản lý, sử dụng, theo sơ đồ đo đạc ngày 08/3/2021 có diện tích 714,2m2, chị Th yêu cầu anh L trả lại diện tích 293,9m2 (240,3m2 + 53,6m2), tổng cộng 1.08,1m2 thừa so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp là 96,3m2. Đất của anh L thửa 82, tờ bản đồ số 15 và thửa 669, tờ bản đổ số 2a được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 2.186,4m2, đo đạc thực tế 1.885,6m2 (nếu tính cả phần tranh chấp 240,3m2) thì đất của anh L thiếu 60,5m2. Vì thế, việc chị Th yêu cầu anh L trả lại phần đất lấn chiếm có diện tích 240,3m2 là không có cơ sở.

Xét, đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Th, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một kháng cáo của chị Th, sửa bản án sơ thẩm. Xét thấy, cũng nhận phần nhận định trên, mặc dù anh Kh là người chuyển nhượng nhà và đất cho chị Th, nhưng ông H1 là người tiến hành thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất cho chị Th, hiện nay anh Kh không có mặt tại địa phương, chị Th và anh L không cung cấp được địa chỉ của anh Kh. Chị Th và anh L cũng không có yêu cầu gì đối với anh Kh, nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải đưa anh Kh tham gia tố tụng. Chị Th không xác định được ranh đất giữa đất của chị Th với đất của anh L, chị Th không có chứng cứ chứng minh anh L lấn chiếm phần đất của chị Th, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Luật sư.

Xét thấy, đề nghị của Viện kiệm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận Từ những cơ sở trên. Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thanh Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Do giữ nguyên bản án sơ thẩm, nên chị Th phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 308; khoản 1, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thanh Th.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2021/DS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh Th.

2. Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa số 83, tờ bản đồ số 15 (bản đồ địa chính chính quy) của bà Nguyễn Thị Thanh Th với thửa số 82, tờ bản đồ số 15 (bản đồ địa chính chính quy) và thửa 669, tờ bản đồ 2a (bản đồ giải thửa 299) của ông Nguyễn Thanh L, đất toạ lạc tại ấp ALạc, xã ĐAn, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp là đoạn thẳng nối từ mốc M14-M13-M31- M11- M6 theo sơ đồ đo đạc phần đất tranh chấp ngày 08/3/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (từ M14- M13 là 20,05m; từ M13-M31 là 0,93m; từ M31-M5 là 33,65m; từ M5-M6 là 8,83m).

Ranh giới được sử dụng theo chiều thẳng đứng từ lòng đất đến không gian. Tài sản của các bên (nếu có) lấn chiếm ranh đất phải di đời theo quy định của pháp luật.

(Kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 20/5/2020 của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò và Sơ đồ đo đạc phần đất tranh chấp ngày 08/3/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).

Các đương sự được quyền đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng diện tích đất thực tế sử dụng.

3. Về án phí dân:

Chị Th phải nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 1.081.000 đồng (Một triệu không trăm tám mươi mốt nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Th đã nộp là 2.025.000 đồng theo biên lai số BH/2018/0006448 ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò. Chị Th còn được nhận lại số tiền 944.000 đồng (Chín trăm bốn mươi bốn nghìn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

Chị Th phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Th đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số BI/2019/0013991 ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá: Chị Th phải chịu toàn bộ số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 6.137.000đ (Sáu triệu một trăm ba mươi bảy nghìn đồng). Số tiền này chị Th đã nộp và chi xong.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

572
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất số 115/2022/DS-PT

Số hiệu:115/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về