Bản án về tranh chấp ranh giới đất đai và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất số 211/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 211/2023/DS-PT NGÀY 05/05/2023 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI ĐẤT ĐAI VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐẤT

Ngày 05 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 09/2020/TLPT-DS ngày 08 tháng 01 năm 2020 về việc “Tranh chấp ranh giới đất đai và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất”, do có kháng cáo của nguyên đơn đối với bản án dân sự sơ thẩm số 08/2019/DS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 4410/2023/QĐPT-DS ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1946; Có mặt.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh ThB

* Bị đơn:

1. Anh Trần Trung Ph, sinh năm 1966; Vắng mặt.

- Đại diện theo ủy quyền của anh Ph: Bà Phạm Thị H4; Có mặt.

2. Chị Phạm Thị H4, sinh năm 1972; Có mặt. Cùng trú tại địa chỉ: Thôn ĐT, xã VT, huyện KX tỉnh ThB

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

- Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn D7 – Chủ tịch; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bà Trần Thị H7, sinh năm 1950; Vắng mặt.

- Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1946; Có mặt.

Địa chỉ: Thôn ĐT, xã VT, huyện KX tỉnh ThB

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án tóm tắt như sau:

* Nguyên đơn - ông Nguyễn Xuân T trình bày: Nguồn gốc diện tích đất của gia đình ông hiện có tranh chấp trước kia là hồ thả cá của hợp tác xã; năm 1988 Hợp tác xã nông nghiệp không thả cá nữa; Vì vậy Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND) xã cho đấu thầu thời hạn 05 năm để làm kinh tế ; gia đình ông được nhận thầu và đã bỏ công sức để cải tạo đất đó làm kinh tế. Được hơn 01 năm thì xã thu hồi để cấp đất ở cho các hộ dân, khi thu hồi đất thì UBND xã đã đền bù công sức cải tạo hoa màu trên đất cho gia đình ông bằng 120m2 đất ao đó, sau ông lấp ao cải tạo thành vườn trồng cây. Năm 1993 có chính sách đo lại đất diện tích đất vườn nhà ông có trong bản đồ 04 thửa đất số 3145 diện tích 120m2 nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giáp ranh thửa đất của gia đình ông T5 là thửa đất số 3346 diện tích 300m2 mang tên anh Trần Đăng Hải (tên gọi khác H6), sinh năm 1971 tại thôn Đồng Tâm, xã Vũ Tây, huyện Kiến Xương được giao đất giãn dân.

Gia đình anh Trần Trung Ph đã xây nhà trên một phần diện tích 300m2 đất của anh H6 (vì ông P8 là chú ruột của anh H6) nhưng thực tế anh Ph không có tên trong bản đồ 04 đo đạc năm 1993 nêu. Năm 2005 anh Ph được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 3346 diện tích 136m2, trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi nguồn gốc sử dụng là đất thổ cư lâu đời bố mẹ để lại. Ông T5 cho rằng, theo anh H6 thì anh chưa hề viết giấy bán hay tặng cho đất anh Ph nhưng không hiểu vì sao anh Ph lại làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến tháng 4/2018, khi UBND huyện về trả sổ đỏ tại UBND xã thì ông ra để lấy sổ đỏ diện tích 120m2 đất vườn nhưng không có, Khi ông hỏi cán bộ địa chính xã thì được biết chị H4 - vợ anh Ph đang tranh chấp đất vườn với nhà ông, vì vậy gia đình ông không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông gặp chị H4 nói chuyện về việc năm 2010 đo đạc bản đồ VLAP hai bên đều đã xác nhận mốc và thống nhất không có ý kiến gì sao bây giờ lại nhận sang đất vườn gia đình ông. Chị H4 trả lời chị không nhận sang đất vườn nhà ông mà cơ quan có thẩm quyền cấp sổ đỏ cho gia đình chị đến đâu thì chị nhận đến đó.

Ông T5 xác định: tại thời điểm gia đình anh Ph xây thêm nhà vệ sinh ở phía cuối thửa đất đã xây lấn sang đất vườn gia đình ông; do ông đi làm ăn xa nhà nên không biết vì vậy khi ông về nhà anh Ph đã xây xong. Ông bảo vợ là bà Trần Thị H7 sang nói chuyện, yêu cầu nhà anh Ph tháo dỡ tường nhà vệ sinh đã lấn sang đất vườn của gia đình ông thì vợ chồng anh Ph bảo đã trót xây rồi khi nào nhà ông cần dùng đến nhà anh chị sẽ tháo dỡ để trả đất gia đình ông. Đến khi vợ chồng anh Ph xây nhà mái bằng kiên cố như hiện nay đã để phần mi cửa sổ phía bắc sang đất vườn nhà ông, ông đã có ý kiến nhưng anh P8, chị H4 nói đã trót xây rồi khi nào nhà ông cần dùng đến thì nhà anh chị sẽ cắt mi cửa sổ để trả đất gia đình ông.

Vì vậy ông T5 đã có đơn khiếu kiện anh Ph, chị H4 gửi UBND xã Vũ Tây; UBND xã đã tiến hành hòa giải ba lần, tuy nhiên cả ba lần hòa giải chị H4 đều vắng mặt. Tại biên bản hòa giải ngày 20/10/2018, UBND xã kết luận nhà anh Ph theo VLAP đo đã năm 2010 đã lấn sang vườn nhà ông 2,2m2 và mi cửa sổ sang đất nhà ông, UBND xã yêu cầu anh Ph tháo dỡ trả lại đất cho gia đình ông nhưng vợ chồng anh Ph không chấp hành.

Ông đề nghị Tòa án giải quyết những nội dung sau:

- Buộc gia đình anh Trần Trung Ph, chị Phạm Thị H4 phải trả lại ông diện tích đất 2,2m2 và cắt toàn bộ mi cửa sổ tầng 1 phía bắc, tháo dỡ tường nhà vệ sinh lấn chiếm sang đất vườn nhà ông đồng thời anh Ph chị H4 không được đòi gia đình ông diện tích đất 21,47m2 theo đo đạc VLAP.

- Tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0085 VT-KX ngày 07/12/2005 UBND huyện Kiến Xương cấp cho hộ anh Trần Trung Ph, chị Phạm Thị H4.

* Bị đơn anh Trần Trung Ph, chị Phạm Thị H4 trình bày: Năm 1986 địa phương có dự án giãn dân, năm 1988 anh Ph đã đấu thầu của UBND xã 01 thửa đất ao. Do anh Ph là công nhân không có hộ khẩu ở nhà nên đã nhờ anh trai là ông Trần Đăng H3 đứng tên để mua cho hợp lệ. Sau khi được xã vào đo đạc cấp thửa ao anh Ph đã làm nhà và sinh sống ở đó từ năm 1988. Khoảng năm 1991, 1992 anh Ph và ông H3 thỏa thuận chia cho ông H3 một nửa già diện tích đất trên (việc chia đất giữa hai anh em không có giấy tờ gì), vợ chồng ông H3, bà Hương cũng ra thửa đất đó làm nhà ở, hai bên hòa thuận vui vẻ không có việc gì xảy ra.

Năm 1995 anh kết hôn với chị Phạm Thị H4 và cùng sinh sống tại thửa đất trên. Mốc đất giáp ranh nhà anh chị với nhà ông T5 đã có từ năm 1988 đến nay không có thay đổi gì. Năm 1999 ông H3 mời cán bộ địa chính xã vào đo đạc và làm thủ tục tách đất cho anh chị (đúng như mốc gia đình anh chị đang sử dụng). Năm 2005 anh chị được UBND huyện Kiến Xương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gia đình anh chị có kê khai và cán bộ địa chính có xuống đo đạc thực địa. Anh chị không biết lý do thửa đất đứng tên anh H6, theo trình bày của bà Hương (mẹ anh H6) anh H6 có mượn tên anh H6 đứng tên thửa đất, thực tế anh H6 không làm bất cứ thủ tục gì để xin cấp đất.

Năm 1999 gia đình anh chị xây nhà mái bằng, vợ chồng ông T5 có sang giúp hộ một thời gian dài, ông T5 còn đặt mốc hai đầu và chỉ dẫn cho người đóng cọc, khi đó ông T5 không có ý kiến gì về mốc giáp ranh.

Năm 2010 UBND huyện Kiến Xương cử cán bộ về đo VLAP, khi đó vợ chồng anh chị đi làm không có ở nhà, ông T5 đã yêu cầu cán bộ địa chính đo sát tường nhà anh chị. Thấy không đúng mốc nên hàng xóm đã gọi điện cho chị H4 về để nhận mốc đất.

Tháng 6/2018 ông T5 có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất vườn, ông T5 mang giấy tờ sang yêu cầu anh chị chấp nhận theo giáp ranh mà ông T5 cho rằng gia đình anh chị lấn chiếm nên anh chị không đồng ý. Chính quyền địa phương đã tổ chức hòa giải nhưng do nội dung hòa giải không thỏa đáng nên gia đình anh chị không đồng ý.

Việc ông T5 trình bày thời điểm gia đình anh chị xây thêm nhà vệ sinh đã lấn sang đất vườn nhà ông T5 và xây nhà mái bằng có để phần mi cửa sổ phía bắc sang vườn nhà ông T5, khi vợ chồng ông T5 có ý kiến anh chị bảo đã trót xây rồi khi nào nhà ông T5 cần dùng đến thì nhà anh chị sẽ tháo dỡ nhà vệ sinh và cắt mi cửa sổ để trả đất nhà ông T5 là không đúng. Thực tế khi vợ chồng anh chị xây nhà ông T5, bà H7 và các con còn sang hộ giúp, khi đó hai bên vẫn hòa thuận vui vẻ.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình anh chị được cơ quan có thẩm quyền cấp theo đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật. Gia đình anh chị không lấn chiếm đất của ông T5 vì vợ chồng anh chị làm nhà lâu rồi mới làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc ông T5 yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình anh chị là không có căn cứ. Vì vậy anh chị không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của ông T5.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị H7 trình bày: Bà nhất trí với ý kiến trình bày và các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T bà không có ý kiến gì bổ sung.

* Đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện Kiến Xương trình bày:

Quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Sau khi UBND xã đề nghị và gửi hồ sơ xét duyệt lên UBND huyện, các phòng ban có thẩm quyền của UBND huyện thực hiện việc thẩm định hồ sơ, sau khi thẩm định hồ sơ ngày 17/12/2005 UBND huyện đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Trần Trung Ph và chị Phạm Thị H4 đúng quy định của Luật Đất đai năm 2003Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành luật Đất đai năm 2003.

* Xác minh tại UBND xã Vũ Tây thể hiện:

Đất nhà ông T5, bà H7 có phần đất đang tranh chấp: Theo bản đồ 299 là thửa đất ao do Hợp tác xã quản lý. Theo đo đạc bản đồ 04 năm 1993 là thửa 3145 diện tích 120m2 loại đất ao. Theo đo đạc Vlap năm 2010 là thửa 1032 diện tích 121,7m2 loại đất ao. Diện tích 120m2 đất ao do ông T5, bà H7 tự vượt lập và được kê khai vào hồ sơ địa chính của UBND xã.

Đất nhà anh Ph, chị H4: Theo đo đạc 299 là thửa đất ao do Hợp tác xã quản lý. Theo bản đồ 04 thửa 3346 diện tích 300m2 loại đất ở mang tên anh Trần H6. Theo đo đạc Vlap năm 2010 diện tích đất 300m2 đất ở được tách thành 03 thửa gồm: thửa 1033 diện tích 139,9m2 mang tên anh Ph, chị H4; thửa 1034 diện tích 90,3m2 mang tên anh H6 và thửa 1098 diện tích 72m2 gia đình anh H6 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T5. Diện tích đất gia đình anh Ph, anh H6, ông Nguyễn Văn T5 đang sử dụng là xin cấp của UBND xã trước thời điểm đo đạc bản đồ 04 năm 1993.

Thời điểm đo đạc bản đồ 04 năm 1993 lý do vì sao anh Trần Đăng Hải (Trần Văn H6) đứng tên trong sổ địa chính của UBND xã chính quyền địa phương không nắm bắt được. Năm 2005 hộ anh H6 và hộ anh Ph, chị H4 làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hai bên thỏa thuận tách thửa như thế nào thể hiện trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cán bộ địa chính thời đó lập. Hiện nay chính quyền địa phương không nắm được thủ tục tách đất giữa hai gia đình và cũng không còn lưu trữ được hồ sơ liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ anh Trần Trung Ph và hộ anh Trần Đăng Hải (Trần Văn H6) do cán bộ địa chính xã thay đổi qua các thời kỳ và không bàn giao lại hồ sơ.

Khi anh Ph xin được cấp đất của UBND xã thì có xây 01 nhà mái ngói cuối đất có phần công trình phụ đang tranh chấp hiện nay. Từ khi anh Ph xây dựng các công trình trên đất đến năm 2017 hai bên gia đình ông T5, anh Ph không có tranh chấp gì về mốc giới. Đến tháng 10/2018 giữa hai bên gia đình mới xảy ra tranh chấp về mốc giới đất, chính quyền địa phương đã hòa giải 03 lần nhưng không thành. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Người làm chứng - bà Nguyễn Thị Hương trình bày: Nguồn gốc thửa đất gia đình bà gia đình anh Ph, chị H4 đang sử dụng trước kia là ao thả bèo trồng rau của UBND xã Vũ Tây, qua kế hoạch dãn dân của UBND xã Vũ Tây năm 1987 - 1988. Gia đình chồng bà có hai anh em ruột là chồng bà (ông H3) và chú P8, do đất ở của bố mẹ chật chội nên chú P8 làm đơn xin mua đất ao của UBND xã theo giá cả lúc bấy giờ với diện tích là 310m2 có chiều rộng mặt đường liên xã là 16m. Sau khi chú P8 mua đất, gia đình bà và chú P8 quật lập thành thổ, thỏa thuận chia đôi mỗi người sử dụng ½ thửa đất. Do duy tâm chia đôi đất không đẹp nên vợ chồng bà thống nhất với chú P8 là gia đình bà lấy 8,7m còn chú P8 lấy 7,3m mặt đường, chú P8 lấy về phía bắc, gia đình bà lấy phía nam thửa đất. Sau khi ao đã quật lập thành thổ cùng năm 1988 chú P8 làm tạm 02 gian nhà ngói trên phần đất của chú P8 để ở. Phần 02 gian nhà chú P8 xây tại vị trí móng nhà vệ sinh hiện nay đang tranh chấp. Năm 1993 vợ chồng bà mới ra làm móng nhà trên phần đất phía nam hai anh em đã thỏa thuận trước đó. Khi làm nhà gia đình bà có nhờ móng âm sang đất nhà chú P8 nhưng hai bên vẫn thống nhất vui vẻ không tính toán thiệt hơn. Năm 1995 chú P8 xây dựng gia đình, đến năm 1998, 1999 vợ chồng bà đã mời cán bộ ruộng đất thời đó đến tách đất cho vợ chồng chú P8 với diện tích là 136m2 (không trừ móng âm). Năm 1999, 2000 vợ chồng chú P8 làm nhà mái bằng và xây dựng thêm các công trình trên đất. Riêng phần công trình phụ có có bức tường lồi ông T5 đang tranh chấp chú P8 xây từ năm 1988, khi sửa lại thành công trình phụ vợ chồng anh Ph giữ nguyên móng xây từ năm 1988. Khi ông H3 và chú P8 mua đất ao của Hợp tác xã, UBND xã cắm mốc vẫn chừa lại một phần đất ao phía bắc rồi mới đến phần đất ở của gia đình ông T5. Sau này ông T5 xây dựng nhà đã đôn lấp phần đất ao này của UBND xã (có phần đất tranh chấp) thành đất vườn nhà ông T5 như hiện nay. Do vậy việc ông T5 cho rằng chú P8, cô H4 lấn chiếm sang đất vườn nhà ông T5 là không đúng thực tế vì các mốc giáp ranh với phần đất vườn nhà ông T5 gia đình chú P8 đã xây dựng công trình từ khi được cấp đất đến nay. Phần đất giáp ranh giữa gia đình bà và gia đình chú P8, gia đình ông Nguyễn Văn T5 không có tranh chấp ngoài phần móng âm gia đình bà xây sang đất của chú P8.

* Người làm chứng - anh Trần Văn H6 trình bày: Nguồn gốc đất gia đình anh và gia đình chú P8, cô H4 đang sử dụng là năm 1989 xã có chủ trương bán đất ao để dãn dân bố anh là ông H3 làm đơn xin mua 300m2 đất ao tại thửa 3346, tờ bản đồ số 04 trên diện tích đất đấu thầu của nhà ông T5, bà H7. Sau khi mua đất gia đình anh đã tiến hành san lấp và đến năm 1992 chú P8 ra làm 2 gian nhà ngói để ở, bố mẹ anh cũng tiến hành xây 01 nhà ngói và 01 móng nhà kiên cố trên đất, do gia đình đông người nên chú P8 xin bố anh được ra diện tích đất gia đình anh san lấp để ở. Do là anh em ruột thịt nên bố anh đồng ý. Bố anh bảo chú P8 ra phía bắc giáp nhà ông T5 làm nhà ở chứ không phân định cụ thể mỗi người bao nhiêu m2. Quá trình sống trên đất hai bên hòa thuận vui vẻ không có mâu thuẫn gì. Năm 2000 vợ chồng chú P8 làm nhà mái bằng xây dựng thêm các công trình trên diện tích đất 136m2 như hiện nay. Năm 2000 bố mẹ anh cũng xây dựng nhà mái bằng kiên cố trên đất. Năm 2002 bố anh (ông H3 mất) năm 2006 vợ chồng anh cùng các con mới chuyển ra nhà đất nói trên sống cùng mẹ anh. Gia đình anh và gia đình chú P8 cùng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005 trong đó nhà chú P8 được cấp diện tích đất 136m2 còn nhà anh được cấp diện tích đất 87,36m2, mọi thủ tục cấp giấy do cán bộ địa chính làm hoàn thiện anh không biết được quy trình cụ thể, thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chú cháu vẫn hòa thuận vui vẻ không có tranh chấp về mốc giới đất, chỉ đến khi đo đạc VLAP năm 2010 thì mới phát sinh mâu thuẫn.

Quá trình mua đất bố anh đã xác định sẽ cho anh mảnh đất này do đó ông đã lấy tên anh để đăng ký trong sổ mục kê, sổ địa chính của UBND xã, việc bố anh cho đất là nói miệng chứ không có văn bản gì. Khi bố anh còn sống đã nói cho chú P8 ở một phần đất và chú P8 cũng đã xây nhà kiên cố trên đất và sử dụng đất ổn định từ năm 1992 đến nay, do đó nay anh không có ý kiến gì về diện tích đất chú P8, cô H4 đang sử dụng trừ phần móng âm.

Anh không xác định được diện tích đất nhà chú P8, cô H4 đang sử dụng có lấn chiếm sang phần đất vườn nhà ông T5 hay không. Tuy nhiên, thời điểm chú P8, cô H4 xây dựng các công trình trên đất giữa hai gia đình vẫn hòa thuận vui vẻ không có tranh chấp gì về mốc giới đất.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét thẩm định tại chỗ, nội dung biên bản thể hiện:

Phần tranh chấp: Vị trí bên nhà ông T5 là đất vườn trồng cây hoa màu.

Vị trí bên nhà anh Ph, chị H4 gồm các công trình: nhà mái bằng, nhà vệ sinh, bể nước trên mái nhà vệ sinh, tường dậu.

Theo ông T5 xác định phần công trình anh Ph chị H4 xây lấn sang đất ông T5 gồm: 1 phần nhà vệ sinh, 1 phần bể nước trên mái nhà vệ sinh, 1 phần bể nước ngầm, bức tường phía trên bể nước và bức tường phía trước nhà vệ sinh, mi cửa sổ nhà mái bằng.

* Tại biên bản định giá tài sản ngày 06/8/2019, Hội đồng định giá xác định:

+ Trị giá đất tranh chấp là 2,2m2 x 2.160.000 đồng/m2 = 4.752.000 đồng.

+ Trị giá tài sản trên đất là 4.755.000 đồng.

Tổng giá trị đất đất tranh chấp và tài sản xây dựng trên đất là 9.507.000 đồng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2019/DS-ST ngày 08/01/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình quyết định:

Áp dụng: Điều 34, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 221 Bộ luật Dân sự, Điều 166 Luật Đất đai.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T và ý kiến đề nghị của bà Trần Thị H7 buộc anh Trần Trung Ph và chị Phạm Thị H4 phải trả ông bà diện tích 2,2m2 đất vườn và cắt toàn bộ mi cửa sổ tầng 1 phía bắc, tháo dỡ tường nhà vệ sinh lấn chiếm sang đất vườn nhà ông bà đồng thời anh Ph, chị H4 không được đòi gia đình ông bà diện tích đất 21,47m2 theo đo đạc VLAP và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0085 VT-KX ngày 07/12/2005 Ủy ban nhân dân huyện Kiến Xương cấp cho hộ anh Trần Trung Ph, chị Phạm Thị H4.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/11/2019, nguyên đơn ông Nguyễn Xuân T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa Phúc thẩm, Ông Nguyễn Xuân T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bị đơn giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa; Thư ký và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70; Điều 71; Điều 72; Điều 73; Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của nguyên đơn là ông Nguyễn Xuân T trong hạn luật định, được xem xét theo thủ tục Phúc thẩm.

Tại phiên tòa Phúc thẩm, một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt; tuy nhiên, các đương sự này đã được Tòa án cấp Phúc thẩm tống đạt hợp lệ giấy triệu tập; việc vắng mặt các đương sự này không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, phiên tòa đã được triệu tập nhiều lần; vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, căn cứ các quyết định giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là ông Nguyễn Xuân T và giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham dự phiên tòa, 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo trong hạn nên được chấp nhận để xét.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định về thẩm quyền giải quyết vụ án; về quan hệ pháp luật phải giải quyết; những người tham gia tố tụng đếu đúng và đấy đủ.

[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Xuân T.

[2.1] Nguồn gốc đất tranh chấp:

[1.1] Đối với diện tích đất nhà ông T5, bà H7 đang quản lý, sử dụng: Theo lời khai của ông T5 và bản đồ 299 thì đất này nguyên là thửa đất ao do Hợp tác xã quản lý giao cho các hộ dân nhận thầu để làm kinh tế. Năm 1993 đã được đo đạc bản đồ 04 là thửa số 3145 diện tích 120m2 loại đất ao. Đến năm 2010 đo đạc bản đồ Vlap là thửa số 1032 diện tích 121,7m2 loại đất ao. Như vậy, diện tích 120m2 đất ao này do ông T5, bà H7 tự vượt lập và được kê khai vào hồ sơ địa chính của UBND xã nhưng không có quyết định giao đất và cung chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

[1.2] Đối với diện tích đất của gia định anh Ph, chị H4: cũng có nguồn gốc là một phần thửa đất ao theo bản đồ 299 do Hợp tác xã quản lý. Theo bản đồ 04 năm 1993 là thửa số 3346 diện tích 300m2 loại đất ở đứng tên anh Trần H6 do anh Ph và ông H3 sử dụng (ông H3 và anh Ph là anh em ruột, còn anh H6 là con ông H3). Quá trình sử dụng đất, đến năm 2005 gia đình anh Ph, chị H4 đã được cấp giấy CNQSD đất đối với thửa 1033 diện tích 139,9m2; phần còn lại chia làm hai thửa số thửa 1034 diện tích 90,3m2 mang tên anh H6; thửa 1098 diện tích 72m2 gia đình anh H6 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T5. Đến năm 2010 theo đo đạc bản đồ Vlap năm diện tích đất 300m2 được tách thành 03 thửa như nêu trên. Nguồn gốc đất gia đình anh Ph, chị H4 đang sử dụng là xin cấp của UBND xã trước thời điểm đo đạc bản đồ 04 năm 1993.

[2] Quá trình sử dụng đất:

Thực tế quá trình sử dụng đất của gia đình anh Ph, chị H4: Theo anh Ph khai, sau khi được cấp đất gia đình anh Ph đã san lấp và năm 1988 anh Ph xây 02 gian nhà ngói phần cuối thửa đất giáp ranh với đất vườn nhà ông T5, bà H7 để ở. Năm 1995 anh kết hôn với chị H4, năm 1999 anh và chị H4 phá một phần nhà ngói để xây dựng công trình vệ sinh trên nền móng cũ của gian nhà ngói xây dựng từ năm 1988. Quá trình xây dựng nhà, quản lý đất không có tranh chấp với gia đình ông T5. Điều này tại phiên tòa Phúc thẩm ông T5 khai thừa nhận. Như vậy từ khi anh Ph xây dựng phần công trình phụ đang tranh chấp, các công trình kiên cố tiếp; quá trình sử dụng đất ổn định không có tranh chấp nên năm 2005 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định, đến tháng 10/2018 mới xảy ra tranh chấp. Ông T5 cho rằng gia đình chị H4, anh Ph phải trả lại ông diện tích đất 2,2m2 và cắt toàn bộ mi cửa sổ tầng 1 phía bắc, tháo dỡ tường nhà vệ sinh lấn chiếm sang đất vườn nhà ông đồng thời anh Ph chị H4 không được đòi gia đình ông diện tích đất 21,47m2 theo đo đạc VLAP là không có căn cứ.

Vì: Việc đứng tên thửa đất: Khi đo đạc bản đồ 04 năm 1993 diện tích đất anh Ph, chị H4 đang sử dụng thể hiện trên sổ địa chính mang tên anh Trần H6 tuy nhiên tại Biên bản lấy lời khai ngày 15/10/2019 anh H6 xác định khi còn sống bố anh (ông H3) và anh Ph đã thoả thuận phân chia đất, mặt khác anh Ph đã sử dụng đất, xây nhà kiên cố trên đất trước thời điểm đo đạc bản đồ 04 nên anh không có ý kiến gì và thời điểm năm 2005 anh Ph và anh H6 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành đo đạc cụ thể hiện trang đất của hai bên, thấy: Đo đạc hiện trạng thửa đất của gia đình ông T5, bà H7, anh Ph chị H4 thì thấy: theo mốc giới ông T5 chỉ diện tích đất vườn nhà ông T5, bà H7 là 125,8m2 là thừa so với diện tích trong hồ sơ địa chính. Theo mốc giới anh Ph chị H4 chỉ thì diện tích đất nhà anh Ph, chị H4 là 134,8m2. Nếu lấy mốc giới nhà anh Ph, chị H4 theo ông T5 xác định thì diện tích đất nhà anh Ph, chị H4 chỉ còn 126,8m2; diện tích đất của anh H6 đo đạc thực tế là 93,1m2, diện tích đất nhà ông Nguyễn Văn T5 là 72m2.

Do đó đã xác định, diện tích đất gia đình anh Ph được hình thành trước phần đất vườn của gia đình ông T5, bà H7. Sau khi được cấp đất anh Ph đã xây dựng công trình đúng theo mốc giới hiện nay, quá trình xây dựng các công trình nhà vệ sinh, bể nước trên mái nhà vệ sinh, bể nước ngầm, bức tường phía trước nhà vệ sinh, nhà mái bằng giữa hai gia đình không xảy ra tranh chấp, ông T5, bà H7 khai khi xây dựng phần công trình phụ và nhà mái bằng gia đình anh Ph, chị H4 đã mượn đất vườn của gia đình ông bà nhưng ông bà không cung cấp được chứng cứ. Mặt khác, theo số liệu đo đạc thực tế đất nhà anh Ph 134,8m2 + 93,1m2 đất của anh H6 + 72m2 gia đình anh H6 chuyển nhượng cho ông T5 = tổng diện tích 299,9m2 là phù hợp với diện tích đất gia đình anh Ph, ông H3 được cơ quan Nhà nước cấp ban đầu là 300m2. Vì vậy Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T5, bà H7 về việc xác định anh Ph, chị H4 lấn chiếm 2,2m2 đất vườn của gia đình ông bà là có căn cứ.

Về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Ph, chị H4: sau khi được cấp đất anh Ph, chị H4 xây dựng các công trình trên đất và sử dụng đất ổn định. UBND huyện Kiến Xương xác định năm 2005 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho anh Ph, chị H4 đúng quy định của pháp luật nên xác định yêu cầu của ông T5, bà H7 đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho gia đình anh Ph, chị H4 là không có cơ sở chấp nhận là đúng. Tại phiên tòa Phúc thẩm ông T5 không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì mới nên không có căn cứ cấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Xuân T.

[3] Về án phí: Ông Nguyễn Xuân T kháng cáo không được chấp nhận, nhưng ông Nguyễn Xuân T là người cao tuổi, nên cấp Phúc thẩm miễn án phí dân sự Phúc thẩm theo quy định.

Vĩ các lẽ trên, Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

QUYẾT ĐỊNH

1. Bác kháng cáo của nguyên đơn là ông Nguyễn Xuân T; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2019/DS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Xuân T không phải chịu án phí dân sự Phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu luật pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án Phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ranh giới đất đai và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất số 211/2023/DS-PT

Số hiệu:211/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về