Bản án về tranh chấp ranh đất, mốc giới thửa đất số 459/2023/DSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 459/2023/DSPT NGÀY 10/11/2023 VỀ TRANH CHẤP RANH ĐẤT, MỐC GIỚI THỬA ĐẤT

Trong các ngày 07 và 10 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 327/2023/TLPT-DS ngày 11 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp “ranh giới đất, mốc giới thửa đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 80/2023/DS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng bị đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Trần Kim T kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 468/2023/QĐPT-DS ngày 23 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Trần Lam H, sinh năm 1984; địa chỉ: Số E đường C T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Nơi cư trú: Số D đường B Khu dân cư I, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Kim T, sinh năm 1957; địa chỉ: Số E đường C T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

2. Bị đơn:

2.1 Bà Nguyễn Thúy N, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số A tổ B, Khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)

2.2 Ông Nguyễn Phú D, sinh năm 1995; nơi cư trú: Số A tổ B, Khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Ông Trần Kim T; địa chỉ: Số E đường C T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

3.2 Bà Dương Thị L; (vắng mặt)

3.3 Ông Phạm Trần Lam N1; (có mặt) Cùng địa chỉ: Số D đường B Khu dân cư I, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông H (Có Ông T đại diện ủy quyền) trình bày: Năm 2004 ông H nhận chuyển nhượng đất từ ông Lâm Hoàng N2 với diện tích chiều ngang giáp sông 20m, dài hết đất. Năm 2008 ông xin đăng ký biến động, tách ra 02 thửa đất 446 (110) và ...., mỗi thửa đều có chiều ngang 10m. Thửa 446, tờ bản đồ 19, diện tích 1000m2 CLN, địa chỉ đất tại Khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ được Ủy ban nhân dân quận C cấp Giấy chứng nhận số AL 502105, số vào sổ H01064 vào ngày 03/6/2008. Sau khi bị thu hồi 301.2m2 vào ngày 09/3/2020 diện tích còn lại 632.9m2, diện tích chiều ngang giáp sông vẫn còn đủ 10m. Lúc mua từ chủ đất gốc ông N2 có cắm trụ ranh, làm hàng rào ổn định giáp ranh thửa 14 của bà Kha So Van N3 (Sau này chuyển nhượng lại cho bà N, tách thửa 14 thành 03 thửa 14, 583 và 584). Cuối năm 2021 bà N thuê công nhân phá dỡ, làm lại hàng rào không đúng vị trí cũ mà lấn qua đất của ông chiều ngang (giáp đường) 0.2m, phần giáp mặt hậu 0m, chiều dài 20m đối với thửa 14 của bà N và đoạn còn lại 13.3m đối với thửa 583 của ông D.

Qua kết quả đo đạc thực tế thể hiện tại Bản trích đo địa chính số 289/TTKTTNMT của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi trường thành phố C ngày 07/4/2023 (sau đây gọi tắt bà B trích đo số 289) ông H yêu cầu bà N trả lại diện tích lấn chiếm qua thửa 4461 là 6.2m2 CLN (có chiều ngang 0.45m) tại vị trí A. Yêu cầu ông D là chủ sử dụng thửa 583 trả lại diện tích lấn chiếm qua thửa 4461 là 1.1m2 CLN (có chiều ngang 0.15m) tại vị trí B của Bản trích đo nêu trên.

Bị đơn bà N trình bày: Nguồn gốc thửa đất 14, diện tích 565.8m2 CLN của bà Kha So Van N3, sau khi bị thu hồi 6.4m2 làm Dự án xây dựng cầu và đường T diện tích còn lại 559.4m2. Trước chuyển nhượng cho bà, bà đã yêu cầu bà N3 đo đạc cập nhật diện tích, hình thể, xác định ranh giới, mốc giới thửa đất thì diện tích còn lại 541.8m2 (bị mất 17.6m2 do diện tích chiều ngang thiếu 0.1m, chiều dài thì đủ. Nguyên nhân thiếu đất được cán bộ địa chính xác định là do sai số- Bút lục 55). Sau khi bà N3 được cấp Giấy chứng nhận mới thì bà nhận chuyển nhượng với diện tích đo đạc thực tế 541.8m2 (Ngang trước 11.90m, ngang sau 11.4m, dài giáp thửa 446 là 46.26m, dài giáp thửa đất của ông Nguyễn Thanh L1 46.8m). Việc đo đạc được cơ quan chức năng phối hợp tiến hành cùng với sự chứng kiến của đại diện chủ đất giáp ranh tại Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất 26/02/2020 có chữ ký xác nhận ranh đất của ông Nguyễn Thanh L1 và bà Dương Thị L (Là mẹ ông H và là thành viên trong hộ ông Phạm Trần Lam H). Lúc đo đạc và thông tin bà N3 cung cấp hàng rào lưới B40 do bà xây dựng nhưng đây không phải là ranh đất mà phía ngoài của hàng rào này còn có ngôi M (hay còn gọi là M1) do gia đình bà xây cất để thờ cúng và có thêm một trụ ranh cách hàng rào khoảng 30cm đến 40cm. Chính trụ ranh này mới là ranh đất của thửa 14 và lúc đo đạc xác định ranh giới đất thì có đo đạc đến vị trí này nên diện tích chiều ngang thửa 14 là 11.90m. Do hàng rào đã cũ, xuống cấp nên bà thuê thợ làm lại hàng rào theo đúng diện tích thực tế 11.90m như đã xác định trong Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất 26/02/2020 và Giấy chứng nhận Nhà nước đã cấp cho bà N3 (sau này là cấp cho bà). Thửa đất gốc 14 sau khi nhận chuyển nhượng bà tách tặng cho ông D thửa 583, cho ông N4 thửa 584. Thửa đất 583 (liền kề sau thửa 14 và giáp thửa 446 của hộ ông H) này giao cho bà quản lý, việc sửa hàng rào do bà tự làm và có sự đồng ý của ông D (ông D là em ruột của bà).

Kết quả đo đạc diện tích của bà cũng bị thiếu mà không biết lý do và cũng không thể đổ thừa cho ai nên bà không tranh chấp hay yêu cầu gì đến ông H. Gia đình ông H nhận chuyển nhượng phần đất lớn, sau này tách làm 02 thửa mà không đo đạc thực tế, chỉ tách thửa trên giấy nên khi đo đạc thực tế thì 02 thửa đất của ông H không có trụ ranh nên việc thửa đất 446 thiếu đất cũng có thể là do thửa đất khác lấn qua. Do bà làm hàng rào ranh đất đúng với diện tích được Nhà nước công nhận và đã được các chủ đất giáp ranh xác nhận nên không vi phạm lấn sang đất của hộ ông H nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn ông D trình bày: Tại Bản tự khai đề ngày 11/5/2023 ông cho rằng thửa đất 583 của ông được bà N tách ra từ thửa 14. Theo bà N cung cấp thông tin từ ban đầu thủ tục bà N nhận chuyển nhượng từ bà N3 đã hoàn thành đo đạc, cắm ranh giới, mốc giới thửa đất từ hàng rào cũ sang hết diện tích ngôi Miễu (Miếu) là 11.9m. Phần đất thửa 14, 583 giáp ranh thửa 446 đã được bà L ký xác nhận ranh đúng với diện tích 11.9m nên việc bà N làm lại hàng rào lưới B40 đúng với diện tích đã đo đạc và được bà L ký xác nhận. Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà L, ông N1 trình bày: Tuy trong quá trình giải quyết vụ án bà L, ông N1 không có Bản tự khai trình bày quan điểm, ý kiến, yêu cầu của mình với tư cách thành viên trong hộ ông H đối với yêu cầu khởi kiện của ông H nhưng tại Biên bản hòa giải ngày 15/8/2023 bà L, ông N1 vẫn thống nhất lời trình bày, nội dung khởi kiện, yêu cầu của ông T (với tư cách nhận ủy quyền của ông H), ông H đối với bà N, ông D.

Quá trình giải quyết vụ án, buổi xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 01/3/2023 thể hiện tuy thửa đất số 446 và 109 đều là của hộ ông H nhưng lại không có trụ ranh, không có ranh giới, mốc giới thửa đất.

Biên bản xác minh ngày 31/5/2023 đối với ông Nguyễn Văn K - Trường K1, người sinh sống lâu năm tại địa phương, gần thửa đất cho biết: Thửa đất gốc 14 của bà Kha So Van N3 có 03 căn nhà do bà N3 xây dựng cư trú cùng các thành viên trong gia đình, đến nay 03 căn nhà này vẫn còn tồn tại và đã được bà N sửa chữa để ở, có đăng ký thường trú. Hàng rào lưới B40 cũng do bà N3 xây dựng, phía ngoài hàng rào là ngôi Miễu (Miếu) thờ của gia đình bà N3, giáp ranh ngôi M (Miếu) này có một trụ ranh đất và vị trí trụ ranh này chính là ranh đất giữa thửa 14 của bà N (nhận chuyển nhượng lại của bà N3) với thửa 446 của hộ ông H. Ông vẫn còn nhớ có lần bà N3 làm thủ tục đo đạc, cập nhật diện tích ông có chứng kiến đo đến trụ ranh của ngôi M (Miếu) và cũng có đại diện gia đình ông H chứng kiến đo đạc, ký giáp ranh. Theo ông bà Nga làm lại hàng rào đúng diện tích, ranh đất đã được gia đình ông H ký xác nhận. Ông cung cấp thêm thông tin về ngôi Miễu (Miếu) thờ thì theo tín ngưỡng việc xây M (Miếu) ai cũng xây trên đất của mình mà không được xây trên đất người khác nên chính điều này vị trí ngôi Miễu (Miếu) này mới là ranh đất của bà N3 (sau này là ranh của bà N) là chính xác (Bút lục 232).

Bản án dân sự sơ thẩm số 80/2023/DS - ST ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng đã tuyên xử Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Trần Lam H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thúy N, ông Nguyễn Văn D1 di dời hàng rào, trả lại diện tích đất lấn chiếm 7.3m2 CLN (Kèm theo Bản trích đo địa chính số 289/TTKTTNMT của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi trường thành phố C ngày 07/4/2023).

Ông Phạm Trần Lam H phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 6.566.000 đồng (đã thực hiện xong) và 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0008798 ngày 06/12/2022 và 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0003074 ngày 17/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng. Ông không phải nộp thêm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người khởi kiện không rút đơn khởi kiện, người kháng cáo không rút đơn kháng cáo và không cung cấp chứng cứ mới. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng, kháng cáo của ông Trần Kim T là phù hợp pháp luật; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử.

Các đương sự có mặt đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Các đương sự, vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Về nội dung vụ án: Đối với phần đất của nguyên đơn tại thửa 446, năm 2011 và năm 2019 đã có quyết định thu hồi tổng diện tích là 367,1m2, phần diện tích còn lại sau khi thu hồi là 632,9m2. Theo Công văn số 128 ngày 08/3/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận C xác định: “Hiện nay thửa đất 446, tờ bản đồ so 19, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H01064 ngày 03 tháng 06 năm 2008 đứng tên hộ Phạm Trần Lam H và chưa ghi nhận các biến động về quyền sử dụng đất”. Như vậy, từ thời điểm nguyên đơn được cấp giấy đến thời điểm sau khi đã thu hồi thì nguyên đơn không thực hiện việc đăng ký biến động về quyền sử dụng đất đối với hình thể và phần diện tích còn lại, nên không có cơ sở cho rằng phần đất của nguyên đơn sau khi thu hồi vẫn đảm bảo chiều ngang là 10m.

Nguyên đơn cho rằng, giữa hai thửa đất trước đây có trụ đá làm ranh, nhưng sau đó phía bị đơn đã tự động nhổ cột mốc cũ và xây dựng hàng rào mới lấn qua phần đất của nguyên đơn. Tuy nhiên, nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc bị đơn đã di dời trụ ranh, thay đổi vị trí như nguyên đơn trình bày, nên không có cơ sở cho rằng bị đơn đã lấn ranh sang phần đất của nguyên đơn.

Mặt khác, thời điểm bị đơn bà Nguyễn Thúy N làm thủ tục cấp GCNQSDĐ, tại bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 26/02/2020 có chữ ký của bà Dương Thị L, là thành viên trong hộ của nguyên đơn ký xác nhận. Trên bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 26/02/2020 đều thể hiện đầy đủ, rõ ràng số liệu từng cạnh, trong đó thể hiện phần diện tích chiều ngang đối với thửa 14 của bị đơn là 14.90m. Tuy nhiên, theo bản trích đo địa chính số 289 ngày 07/4/2023 của Trung tâm K2 thuộc Sở TN và MT thành phố C thể hiện, phần diện tích chiều ngang bị đơn đang sử dụng là 11.43m, nếu bao gồm luôn phần diện tích tranh chấp 0,45m thì phần đất của bị đơn vẫn không đủ 11.90m). Do phần đất bị đơn thực tế sử dụng vẫn còn thiếu so với GCNQSDĐ được cấp, nên không có cơ sở chấp nhận đối với yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

Từ các phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 80/2023/DS-ST ngày 26/6/2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn: Theo đơn kháng cáo và lời trình bày của đại diện nguyên đơn tại phiên tòa cho thấy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lại hiện trạng ranh đất ban đầu giữa 02 bên sao cho diện tích đất của nguyên đơn đảm bảo diện tích ngang trước, ngang sau 10m. Theo nguyên đơn, ranh đất cũ có hàng rào, trụ ranh nhưng hiện tại phía bị đơn đã phá dỡ hàng rào cũ, xây lại hàng rào mới có lấn chiếm qua đất của nguyên đơn, hiện tại chiều ngang phía trước đất của nguyên đơn chỉ còn 9.87m.

[2] Xét thấy, nguồn gốc thửa đất 446 (110) ông H nhận chuyển nhượng hợp pháp từ ông N2. Khi làm thủ tục đăng ký biến động ngày 28/3/2008, đo đạc, tách thửa vào ngày 29/3/2008 có đầy đủ chữ ký xác nhận ranh giới thửa đất (hướng Đông giáp đất của ông Đ, hướng Tây giáp đường đi, hướng Nam giáp đất của ông H1, hướng Bắc giáp đất của ông T1) diện tích chiều ngang thửa 446 là 10m, được cấp Giấy chứng nhận vẫn là 10m. Quá trình sử dụng đất, năm 2011 Nhà nước thu hồi 65.9m2 để thực hiện dự án xây dựng bờ kè sông C. Đến năm 2020 Nhà nước tiếp tục thu hồi 301.2m2. Do đó diện tích đất còn lại của nguyên đơn là 632.9m2. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn thừa nhận, chỉ biết diện tích đất còn lại là 632.9m2 nhưng chưa cập nhật chỉnh lý biến động về hình thể, hiện trạng thửa đất. Như vậy, về mặt hình thể thửa đất nguyên đơn chưa có cơ sở pháp lý nào xác định kích thước còn lại của thửa đất có chiều ngang trước, ngang sau đúng 10m nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại đất sao cho kích thước phần đất phía trước có chiều ngang 10m là chưa có cơ sở.

[3] Mặt khác, tại phiên tòa ông T thừa nhận bà L ký xác nhận ranh đất vào Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 26/02/2020 là xác nhận cho hàng rào lưới B40 đã tồn tại trên thửa đất 682 (sau là thửa 14) do phía gia đình ông H1, bà N3 xây dựng mà không quan tâm diện tích, hình thể đất của ông H1, bà N3 như thế nào, cũng không phải xác nhận cho số liệu chiều ngang, chiều dài các cạnh của thửa đất 14. Lời trình bày của ông tính là chưa có cơ sở bởi Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất là căn cứ xác định ranh giới đất của các thửa đất liền kề. Bà L là thành viên trong hộ ông H cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng đất như các thành viên còn lại trong hộ phải biết và chịu trách nhiệm trước việc ký, xác nhận liên quan đến ranh giới, mốc giới đất của mình. Nếu tại thời điểm ký xác nhận bà có nghi ngờ hoặc cho rằng không chứng kiến đo đạc hoặc xác định ranh giới đất không đúng thì có quyền yêu cầu người đo đạc/dẫn đạt thực hiện lại để kiểm tra, đối chiếu nhưng bà không có động thái nào thể hiện điều này. Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 26/02/2020 có thể hiện đầy đủ, rõ ràng số liệu từng cạnh của thửa đất 682 (sau là thửa 14, Bút lục 50) có chữ ký xác nhận của các hộ giáp ranh nên thủ tục đo đạc, cấp Giấy chứng nhận cho bà N3 với diện tích nêu trên là đúng quy định tại khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015. Bà N nhận chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích này từ bà N3 đã được Chi nhánh Văn phòng Đ1, đăng ký biến động ngày 09/4/2020 phù hợp quy định tại điểm a, b khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai 2013.

[4] Hơn nữa, kết quả đo đạc thực tế thể hiện tại Bản trích đo địa chính số 289 diện tích tranh chấp có chiều ngang 0.45m, tại phiên tòa đại diện nguyên đơn có điều chỉnh lại diện tích yêu cầu bà N trả 0.13m sao cho diện tích đất chiều ngang của ông đúng như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Nhà nước cấp cho ông mà không cần quan tâm diện tích của bà N có dư hay không. Theo bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 26/02/2020 thể hiện phần diện tích chiều ngang đối với thửa 14 của bị đơn là 14.90m. Tuy nhiên, theo bản trích đo địa chính số 289 ngày 07/4/2023 của Trung tâm K2 thuộc Sở Tài Nguyên và Môi Trường thành phố C thể hiện, phần diện tích chiều ngang bị đơn đang sử dụng là 11.43m, nếu bao gồm luôn phần diện tích tranh chấp 0,45m thì phần đất chiều ngang của bị đơn là 11.88m vẫn không đủ 11.90m thiếu 0.02m so với kích thước đất mà Nhà nước công nhận cho bị đơn sử dụng nhưng việc thiếu 0.02m này là thiếu do sai số, chênh lệch số liệu khi đo đạc trong phạm vi cho phép xem như bà N đã sử dụng đúng diện tích, ranh giới, mốc giới thửa đất được quy định tại khoản 1 Điều 170 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 Điều 176 Bộ luật Dân sự 2015. Như vậy nếu cộng cả phần diện tích đất tranh chấp thì diện tích, kích thước đất thực tế phía bị đơn sử dụng đất không dư so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị đơn được cấp nên nguyên đơn yêu cầu trả lại quyền sử dụng đất của nguyên đơn là không có cơ sở.

Từ những phân tích trên cho thấy, Bản án sơ thẩm đã tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không được chấp nhận.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông H phải chịu 300.000 đồng. Ông H được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003337 ngày 24/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Cái Răng thành án phí.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 80/2023/DS - ST ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Trần Lam H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thúy N, ông Nguyễn Văn D1 di dời hàng rào, trả lại diện tích đất lấn chiếm 7.3m2 CLN (Kèm theo Bản trích đo địa chính số 289/TTKTTNMT của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên Môi trường thành phố C ngày 07/4/2023).

Ông Phạm Trần Lam H phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 6.566.000 đồng (sáu triệu năm trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) (đã thực hiện xong) và 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0008798 ngày 06/12/2022 và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0003074 ngày 17/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng. Ông không phải nộp thêm.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) ông H phải chịu. Ông H được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003337 ngày 24/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng thành án phí.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ranh đất, mốc giới thửa đất số 459/2023/DSPT

Số hiệu:459/2023/DSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về