Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cấp đất cho hộ gia đình (các nguyên đơn cùng khai hoang nhưng không sử dụng từ năm 1989) số 283/2021/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 283/2021/DS-PT NGÀY 31/12/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH CẤP ĐẤT CHO HỘ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 165/2021/TLPT-DS ngày 22 tháng 4 năm 2021 về: “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy quyết định cấp đất cho hộ gia đình”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 27/01/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn:

1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1952;

Nơi cư trú: Khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị T: Ông Nguyễn T Kế (Giấy ủy quyền ngày 23/11/2018) 2. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1947;

3. Ông Văn T, sinh năm 1948 và bà Trần Thị K, sinh năm 1948;

4. Bà Huỳnh Thị D, sinh năm 1942;

5. Bà Trần Thị T, sinh năm 1940;

6. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1973;

7. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1952;

8. Bà Phạm Thị Qui L; sinh năm 1954;

Cùng cư trú tại: Khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

9. Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1975; Nơi cư trú: phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.

10. Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1974;

11. Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1965;

12. Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1979;

Cùng cư trú tại: Khu phố P 1, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

Bà P, ông T, bà D, bà T, bà P, bà L, bà T, ông T, bà H ủy quyền cho bà Nguyễn Thị T tham gia tố tụng (Giấy ủy quyền ngày 03/6/2021 và 04/6/2021) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Tấn H – Văn phòng Luật sư L; địa chỉ: tỉnh Phú Yên.

* Bị đơn:

 Ông Nguyễn Việt S, sinh năm: 1943 (đã chết) Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng:

- Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1951; Nơi cư trú: Khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

- Chị Nguyễn Thị H L, sinh năm 1972; Nơi cư trú: phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

- Anh Nguyễn T L, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

- Anh Nguyễn T L, sinh năm 1979, Nơi cư trú: tỉnh Phú Yên.

Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng trên ủy quyền cho ông Trịnh Bình Tấn, sinh năm 1979; địa chỉ: 76 Nguyễn Huệ, phường 5, thành phố T, tỉnh Phú Yên tham gia tố tụng (Giấy ủy quyền ngày 24/12/2021).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. UBND thị xã Đ, tỉnh Phú Yên 2. UBND phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

3. Hợp tác xã dịch vụ Tổng hợp nông nghiệp H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

4. Chị Nguyễn Thị H L, sinh năm 1972; Nơi cư trú: phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

5. Anh Nguyễn T L, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên;

6. Anh Nguyễn T L, sinh năm 1979, Nơi cư trú: tỉnh Phú Yên.

7. Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1951; Nơi cư trú: khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.

Người kháng cáo: bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị P, ông Văn T, bà Huỳnh Thị D, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị G, bà Phạm Thị Qui L, bà Nguyễn Thị Kim T, ông Nguyễn Hữu T, bà Nguyễn Thị Kim H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 26/4/2019 và tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa, đồng nguyên đơn trình bày:

Thực hiện theo Điều 11 TT số 31/TTCP/1963 và Quyết định 154 ngày 16/6/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về chính sách khai hoang, phục hóa, vào năm 1980 chúng tôi thành lập Tổ đội 18 thuộc Hợp tác xã nông nghiệp huyện T cũ. Tổ đội 18 do ông Nguyễn Việt S làm đội trưởng, bà Nguyễn Thị T làm đội phó, đến năm 1989 tổ đội 18 đi khai hoang vùng đất ven biển thuộc huyện T cũ, tạo lập được thửa đất có diện tích 14.929m2 (đo đạc thực tế 13.334,lm2), tổ đội 18 tiến hành trồng rất nhiều dương, bạch đàn và phi lao dùng làm nguyên liệu sản xuất lâm nghiệp để bán chia cho các thành viên trong đội. Đến thời kỳ giao đất theo Nghị định 64/CP của Chính phủ, chia đất nông nghiệp lại cho các hộ xã viên làm ăn đóng thuế, không còn mô hình hợp tác xã nên đội sản xuât P 2 giải tán. Thửa đất này là do công sức của từng đội viên đội 18 đóng góp tạo lập nên, thuộc quyền sử dụng đất chung của đội 18 và đồng ý tạm thời giao ông Nguyễn Việt S trực tiếp sử dụng đất. Năm 2010 ông S tự ý đăng ký kê khai đất, làm các thủ tục pháp lý về quyền sử dụng đất do ông S đứng tên mà không có sự đồng ý của các thành viên trong Đội 18, nên nguyên đơn yêu cầu công nhận diện tích đất 14.929m2 (thực tế 13.334m2) thuộc tờ bản đồ số 19-D, thửa số 96, tọa lạc tại khu phổ P 2, thị trấn H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên thuộc quyền sử dụng đất chung của tất cả các thành viên trong đội 18 và yêu cầu hủy Quyết định số 63 ngày 23/8/1989 của UBND huyện T (cũ) về việc giao đất vườn rừng đứng tên ông Nguyễn Việt S, chia đều đất cho các thành viên trong đội 18.

Tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn ông Nguyễn Việt S trình bày:

Năm 1989 gia đình ông gửi đơn xin nhận đất làm vườn rừng và được UBND huyện T cũ (nay huyện Đ) cấp đất trống đồi trọc cho hộ gia đình ông để trồng rừng với diện tích 16.000m2 , theo quyết định số 63 của UBND huyện T cấp ngày 23/8/1989 và biên bản giao nhận đất xây dựng vườn rừng của UBND xã H lập ngày 09/10/1989. Sau khi được Nhà nước giao đất, gia đình tôi trực tiếp sử dụng đất và trồng các loại cây như dương, bạch đàn và đã khai thác nhiều lần từ lúc nhận đất cho đến nay. Trong quá trỉnh sử dụng đất trồng rừng, hộ gia đình ông luôn chấp hành mọi quy định cùa pháp luật và sử dụng ổn định, liên tục, công khai, không ai tranh chấp. Hiện nay ông đã hoàn tất thủ tục để được Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hẹn ngày 04/02/2018 sẽ trả kết quả, nhưng không biết xuất phát từ đâu? các nguyên đơn khởi kiện đối với diện tích đất (16.000m2) mà Nhà nước đã giao cho gia đình ông, làm ảnh hưởng đen quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hộ, nên ông không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- UBND phường H trình bày: Về chính sách trồng rừng, khai hoang vào giai đoạn 1989 - 1993 thì UBND phường H không rõ nên đề nghị tòa thu thập chúng cứ tại Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp H và các chủ nhiệm hợp tác xã thời kỳ đó.

- Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp H trình bày: Qua kiểm tra tài liệu, chứng cứ tại hợp tác xã thì tài liệu thời kỳ 1979-1989 do Tòa án yêu cầu không còn lưu trữ tại hợp tác xã.

- Chị Nguyễn Thị H L, Anh Nguyễn T L, Anh Nguyễn Thànhh L và bà Lê Thị Kim L trình bày: như ý kiến của bị đơn ông Nguyễn Việt S.

Với những nội dung trên, Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 27/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Căn cứ Điều 26, 100, 101, Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 147, Điều 165, Điều 34, điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 163 Bộ luật Dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu của các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị P, ông Văn T, bà Huỳnh Thị D, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị G, bà Phạm Thị Qui L, bà Nguyễn Thị Kim T, ông Nguyễn Hữu T, bà Nguyễn Thị Kim H theo đơn khởi kiện ngày 26/4/2019 về việc yêu cầu công nhận diện tích đất 14.929m2 (thực tế là 13.334,1m2), thuộc tờ bản đồ số 19-D, thửa số 96, tọa lạc tại khu phố P 2, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên (nay là khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên) là thuộc quyền sử dụng đất chung của tất cả các thành viên trong tổ đội 18 và yêu cầu hủy Quyết định số 63/QĐ- UB ngày 23/8/1989 của UBND huyện T về việc cấp đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Việt S làm vườn rừng.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Đ.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần chi phí tố tụng, án phí, quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Kháng cáo:

Ngày 30/01/2021, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị P, ông Văn T, bà Huỳnh Thị D, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị G, bà Phạm Thị Qui L, bà Nguyễn Thị Kim T, ông Nguyễn Hữu T, bà Nguyễn Thị Kim H nộp đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn cho rằng Quyết định số 63 là giả mạo vì có hai Quyết định số 63 cùng ngày 23/8/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T. Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng khi tiến hành thủ tục định giá, Hội đồng định giá đã không định giá tài sản trên đất và không có đầy đủ các đồng nguyên đơn tham dự. Vì vậy, đề nghị hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu đề nghị bác kháng cáo của các đồng nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thửa đất đang tranh chấp có diện tích 14.929m2 (thực tế là 13.334m2) thuộc tờ bản đồ số 19-D, thửa số 96, tọa lạc tại khu phố P 2, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên (nay là thị xã Đ, tỉnh Phú Yên) có nguồn gốc: Theo Quyết định số 63/QĐ-UB ngày 23/8/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc cấp đất cho hộ gia đình làm vườn rừng do ông Nguyễn Việt S đại diện đứng tên, với diện tích được cấp 16.000m2, Biên bản giao nhận đất xây dựng vườn rừng ngày 09/10/1989 của HTX nông nghiệp KDTH xã Hoa Hiệp Trung giao cho hộ ông Nguyễn Việt S 16.000m2 đất để trồng rừng; Bản đồ đo đạc năm 1995, tờ số 19- D, thửa đất số 96, diện tích 14.924m2, loại đất (LN); Sổ mục kê đất lập năm 1999, quyển số 2, trang 150, thửa đất số 96, diện tích 14.924m2, loại đất (RTS) người sử dụng đất do ông S đại diện hộ gia đình đứng tên; Bản đồ đo đạc năm 2010. tờ số 33, thửa đất số 37, diện tích 15.348,3m2, loại đất (RST), do ông S đại diện cho hộ gia đình đứng tên kê khai.

[2] Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/12/2020, bà Nguyễn Thị T trình bày: “Chúng tôi bắt đầu đi trồng rừng trong khoảng thời gian từ 1980-1989, và giải thể sau năm 1989. Chúng tôi trồng cây bạch đàn, phi lao trên diện tích đất ven biển xã H. Cây do hợp tác xã cấp cho xã viên đi trồng, một ngày đội 18 trồng trên 1.000 cây. Tôi là người trực tiếp chấm công cho xã viên rồi chiều đem bảng chấm công cho ông S giữ” [3] Tại biên bản ghi lời khai ngày 02/12/2020, người làm chứng ông Dương Bình S nguyên là Chủ nhiệm Hợp tác xã H trình bày có việc trồng rừng của các nguyên đơn từ năm 1981, 1982, nhưng cho rằng đất là tài sản của Nhà nước, đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật về đất đai.

[4] Như vậy, việc khai hoang, trồng rừng của các đồng nguyên đơn chỉ diễn ra trong khoảng thời gian từ 1980-1989. Sau năm 1989, ông Nguyễn Việt S xin cấp đất rừng và được Ủy ban nhân dân huyện T cấp đất cho hộ gia đình làm vườn rừng, với diện tích được cấp 16.000m2 tại Quyết định số 63/QĐ-UB ngày 23/8/1989. Việc cấp đất trống để trồng rừng của Ủy ban nhân dân huyện T là phù hợp với chủ trương của Nhà nước tại Quyết định số 184-HĐBT ngày 6-11- 1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây, gây rừng. Hộ gia đình ông S trực tiếp sử dụng đất từ 1989 đến nay.

[5] Việc khai hoang, trồng bạch đàn và phi lao trên diện tích đất tranh chấp của các đồng nguyên đơn đã kết thúc vào năm 1989, sau năm 1989 đến nay các đồng nguyên đơn không tiếp tục sử dụng đất nên yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng chung của các thành viên trong tổ đội 18 là không có căn cứ.

[6] Kháng cáo của các nguyên đơn và quan điểm của Luật sư cho rằng Quyết định số 63/QĐ-UB ngày 23/8/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T là văn bản không hợp pháp, vi phạm về thẩm quyền và hình thức ban hành văn bản là không có cơ sở; vì quyết định được ban hành theo mẫu ghi Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Phú Khánh nhưng thực chất cơ quan ban hành là Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Phú Yên, phù hợp với việc chia tách địa giới hành chính. Việc có hai Quyết định cùng số 63 ngày 23/8/1989 có thể do sai sót về thủ tục hành chính. Tuy nhiên, hai quyết định có nội dung khác nhau và Quyết định số 63 cấp đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Việt S được triển khai thực hiện trên thực tế nên không có căn cứ cho rằng Quyết định số 63/QĐ-UB ngày 23/8/1989 của Ủy ban nhân dân huyện T cấp đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Việt S là giả mạo, không hợp pháp. Biên bản định giá ngày 14/11/2019, có bà Nguyễn Thị T tham gia và ký tên, thống nhất với các nội dung định giá. Quá trình giải quyết vụ án, các đồng nguyên đơn không khiếu nại về việc định giá nên ý kiến của Luật sư cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng về định giá là không có cơ sở.

[7] Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc yêu cầu công nhận diện tích đất 14.929m2 (thực tế 13.334m2) thuộc tờ bản đồ số 19-D, thửa số 96, tọa lạc tại khu phố P 2, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên (nay là khu phố P 2, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên) thuộc quyền sử dụng đất chung của tất cả thành viên trong tổ đội 18 và yêu cầu hủy Quyết định số 63/QĐ-UB ngày 23/8/1989 của UBNĐ huyện T là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8] Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị P, ông Văn T, bà Huỳnh Thị D, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị G, bà Phạm Thị Qui L, bà Nguyễn Thị Kim T, ông Nguyễn Hữu T, bà Nguyễn Thị Kim H.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 27/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

3. Án phí phúc thẩm:

Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị P, ông Văn T, bà Huỳnh Thị D, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị G, bà Phạm Thị Qui L vì là người cao tuổi. Hoàn lại cho mỗi người 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại các biên lai số 0006633, 0006634, 0006635, 0006636, 0006637, 0006639, 0006640 cùng ngày 04/02/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị Kim T, ông Nguyễn Hữu T, bà Nguyễn Thị Kim H mỗi người phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm, đã nộp tại các biên lai số 0006638, 0006641, 0006642, 0006643 cùng ngày 04/02/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cấp đất cho hộ gia đình (các nguyên đơn cùng khai hoang nhưng không sử dụng từ năm 1989) số 283/2021/DS-PT

Số hiệu:283/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về