Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cá biệt số 219/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 219/2023/DS-PT NGÀY 24/04/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT

Ngày 24 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 582/2022/TLPT- DS ngày 28-11-2022 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cá biệt”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2022/DS-ST ngày 30-9-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 848/2023/QĐ-PT ngày 19 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn:

1. Bà Phan Thị Minh N, sinh năm 1978; địa chỉ: Số 448G, ấp Bình Lương 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An

2. Bà Phan Thị Minh T, sinh năm 1974; địa chỉ: Số 48/32 Sương Nguyệt Anh, Phường 2, thành phố Tân An, tỉnh Long An Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyệt và bà T2: Ông Hoàng Văn Tr, sinh năm: 1991; địa chỉ thường trú: B 1A, xã Q, huyện T, tỉnh Đăk Nông; địa chỉ: Số 115, Quốc lộ 1A, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh Long An (Văn bản ủy quyền ngày 04-12-2019). Có mặt.

* Bị đơn:

1. Bà Nguyễn Thị Mộng Đ, sinh năm 1966.

2. Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1972;

3. Ông Bùi Văn S, sinh năm 1975;

Cả ba cùng địa chỉ: ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ, ông S và bà T2: Bà Trần Thị Hồng X, sinh năm: 1960; địa chỉ: Số 102 KA, ấp VK, xã BA, huyện TT, tỉnh Long An (theo giấy ủy quyền ngày 23-8-2022). Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân huyện TT, tỉnh Long An;

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Qu - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện TT, tỉnh Long An. Vắng mặt.

* Người kháng cáo: Bà Phan Thị Minh N, bà Phan Thị Minh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo Mảnh trích đo địa chính ngày 21-07-2022 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất TT đo vẽ ngày 21-7-2022 căn cứ trên Mảnh trích đo địa chính do Công ty TNHH đo đạc nhà đất TT đo vẽ ngày 31-10-2019 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện TT duyệt ngày 01-11-2019 thể hiện phần đất tranh chấp gồm: Khu D2 diện tích 7,2 m2, Khu E diện tích 9,9 m2, Khu F diện tích 172,9 m2.

Theo ranh bản đồ địa chính thì Khu D2 thuộc thửa đất 142, Khu E và Khu F thuộc thửa đất 143.

Tuy nhiên, khi Ủy ban nhân dân huyện TT cấp Giấy chứng nhận lần đầu cho ông Phan Duy H ngày 13-9-1995 đối với các thửa đất số 1022, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tờ bản đồ 01, đất trồng lúa, ao (NTS) và đất thổ (ONT) tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An không thể hiện có đo vẽ diện tích đất sử dụng thực tế. Ngày 10-5-2013, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện TT đính chính các thửa đất số 1022, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tờ bản đồ 01 sang các thửa đất số 74, 142, 143, và 131, tờ bản đồ 07, tổng diện tích 5.346,9m2 đất trồng lúa và đất ở tại nông thôn cũng không thể hiện có đo vẽ diện tích đất sử dụng thực tế.

Ngày 20-5-2013, ông Phan Duy H lập hợp đồng tặng cho các thửa đất số 74, 142, 143, và 131, tờ bản đồ 07, tổng diện tích 5.346,9m2 đất trồng lúa và đất ở tại nông thôn cho bà Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất công chứng số 3380, quyển số 04 tại Văn phòng Công chứng TT ngày 20-5-2013. Việc tặng cho đất cũng không thể hiện có đo vẽ diện tích đất sử dụng thực tế.

Trong khi đó, theo Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 26-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thể hiện: Phần tiếp giáp giữa phần đất tranh chấp vị trí F với phần đất vị trí B (thửa đất 143) năm 2002 ông Phan Duy H cha bà T2, bà N có xây dựng hàng rào kết cấu cột rào bê tông cốt thép, chân rào xây gạch 0,65m, phần trên hàng rào được hàn bằng song sắt, tổng chiều cao hàng rào là 2,2m. Ngoài ra, trên phần đất vị trí F ông S và bà T2 có làm một chòi kho kích thước 2,3m x 4,6m, kết cấu cột gỗ tạp + bê tông đúc sẳn, kèo, đòn tay gỗ tạp, mái toll, vách toll và có trồng 04 cây dừa (03 cây còn sống, 01 cây chết), 03 cây mai vàng, 01 cây mai chấn thủy, 01 cây lê ki ma, 01 cây cam, 02 cây gừa và một số bụi chuối. Trên phần đất vị trí E và D2 năm 2008 bà Đ có làm một mái che tiền chế kết cấu cột sắt Fi 6, kèo sắt hộp 4 cm x 6 cm, mái toll sóng vuông; năm 2018 bà Đ có tráng bê tông phần đất. Ngoài ra, trên phần đất vị trí A, B phần tiếp nối với hàng rào tại vị trí đối diện với phần đất vị trí E và D2 là cổng rào của hàng rào, cửa cổng rào bằng sắt.

Như vậy, phần đất tranh chấp do ông S, bà T2 và bà Đ sử dụng từ trước khi ông H tặng cho đất bà N, bà T2; giáp ranh giữa phần đất tranh chấp và thửa đất 142, 143 ông H đã xây dựng hàng rào và cổng rào kiên cố từ năm 2002 nên không có cơ sở xác định ông S, bà T2 và bà Đ lấn chiếm đất của bà T2 và bà N.

Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Hoàng Văn Truyền trình bày:

Các thửa đất số 74, 142, 143, và 131, tờ bản đồ 07, hiện bà Phan Thị Minh N và Phan Thị Minh T đang cùng đứng tên giấy CN QSD đất. Các thửa đất trên có nguồn gốc của ông Phan Duy H được thừa hưởng của ông bà để lại.

Ngày 13-9-1995, ông Phan Duy H được Ủy ban nhân dân huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu số A 137074, trong đó có các thửa đất số 1022, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tờ bản đồ 01, đất trồng lúa, Ao (NTS) và đất Thổ (ONT), khi cấp giấy không có đo đạc, cắm mốc giới các thửa đất.

Ngày 10-5-2013, Phòng Tài nguyên và Môi trường đính chính các thửa đất số 1022, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tờ bản đồ số 01 sang các thửa đất số 74, 142, 143, và 131, tờ bản đồ 07, tổng diện tích 5346,9m2 đất trồng lúa và đất ở tại nông thôn theo sổ bộ quản lý trên trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 137074 của ông Phan Duy H.

Năm 2013, ông Phan Duy H tặng cho các thửa đất số 74, 142, 143, và 131, tờ bản đồ 07, tổng diện tích 5346,9m2 đất trồng lúa và đất ở tại nông thôn cho con ruột là Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất công chứng số 3380, quyển số 04 tại Văn phòng Công chứng TT ngày 20-5- 2013. Ngày 04-6-2013, bà Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T được Ủy ban nhân dân huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi làm thủ tục tặng cho cũng không có đo đạc, cắm mốc giới các thửa đất.

Do bà T2 và bà N không thường xuyên ở trên đất trên nên bà Đ cất nhà có làm máy che chiếm lối đi trên phần đất đã lấn chiếm diện tích đo đạc thực tế 17,1m2 (tại các vị trí E, D2) thuộc một phần thửa đất số 142, 143 tờ bản đồ số 7 và bà Nguyễn Thị T2, ông Bùi Văn S lấn chiếm phần đất đo đạc diện tích thực tế 172,9 m2 (vị trí F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

Nay bà Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc:

+ Bà Nguyễn Thị Mộng Đ tháo dở tài sản trả lại phần đất lấn chiếm diện tích đo đạc thực tế 17,1m2 ( vị trí E diện tích 9,9m2 và D2 diện tích 7,2m2) thuộc một phần thửa đất số 142, 143 tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

+ Buộc bà Nguyễn Thị T2 và ông Bùi Văn S tháo dở tài sản và di dời cây cối trả lại phần đất lấn chiếm đo đạc diện tích thực tế 172,9 m2 (vị trí F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị T2, ông Bùi Văn S, bà Trần Thị Hồng X trình bày:

Nguyên vào năm 1990, ông Bùi Văn G (cha ông S) mua của bà Nguyễn Thị Nh 03 thửa đất lúa cặp lộ làng ấp BL 2, xã BT, huyện TT và một phần đất giáp ranh với đất của ông Phan Duy H (phần đất đang tranh chấp), ông G trực tiếp sử dụng trồng cây ăn trái, cất nhà kho, nhà để chăn nuôi gia súc từ khi mua cho đến năm 1995. Năm 1995, bà Nguyễn Thị Nh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tổng diện tích 3770m2, gồm các thửa: Thửa đất số 1392 diện tích 1230m2, thửa đất số 1274 diện tích 1053m2, thửa đất số 1273 diện tích 612m2 và thửa đất số 1272, diện tích 875m2, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT.

Ngày 03-01-2002, bà Nguyễn Thị Nh làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông G 03 thửa đất ruộng số 1272 diện tích 875m2, thửa đất số 1273 diện tích 612m2 và thửa đất số 1274 diện tích 1053m2, đất cặp lộ làng ấp BL 2, xã BT và một phần đất cặp lộ làng ráp ranh với đất của ông Phan Duy H.

Tháng 11/2014, ông G tặng cho vợ chồng ông S, bà T2 một phần các thửa đất nói trên với tổng diện tích 1.380m2 và phần đất cặp lộ làng, ráp ranh với đất của ông Phan Duy H, ông S đã làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất xong. Riêng phần đất đang tranh chấp ông S chưa đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng vì ông bà nghĩ đất của bà Nh bán cho ông G đã được chuyển quyền sử dụng hết rồi, nên an tâm sử dụng, trong thời gian sử dụng từ năm 1990 cho đến năm 2018 không ai ngăn cản và không ai tranh chấp.

Nay nguyên đơn bà N, bà T2 khởi kiện và có yêu cầu như trên, bị đơn ông Bùi Văn S, bà Nguyễn Thị T2 không đồng ý và có yêu cầu:

+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 172,9 m2 (vị trí F), thuộc một phần thửa đất số 1275, tờ bản đồ số 01, mà ông Phan Duy H được UBND huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13-9-1995.

+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 172,9 m2 (vị trí F), thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 07, mà bà N, bà T2 được UBND huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04- 6-2013.

Riêng đối với yêu cầu Tòa án công nhận cho ông Bùi Văn S và bà Nguyễn Thị T2 sử dụng phần đất có diện tích 172,9m2 ( vị trí F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7, loại đất lúa, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An. Nay ông Bùi Văn S và bà Nguyễn Thị T2 xin được rút lại yêu cầu này, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng Đ, bà Trần Thị Hồng X trình bày: Nguyên vào ngày 01-01-1990, bà Nguyễn Thị Nh có làm giấy tay bán cho bà Đ một phần đất ruộng cặp lộ làng ấp BL 2, xã BT có chiều nGg 5,2m, chiều dài 20m, giáp ranh với đất của ông Phan Duy H tại thửa đất số 1278 và cặp lộ làng. Sau khi mua đất xong, bà Đ đổ đất làm nền và cất nhà tạm để ở và đến năm 1994, bà cất nhà kiên cố bê tông cốt thép ở cho đến nay. Khi mua đất bà Nh bán cho bà Đ từ bờ đất có đặt bọng thoát nước đến hết phần đất giáp ranh với thửa số 1276; thửa đất bà Nh bán cho bà Đ diện tích khoảng 104m2, loại đất lúa, do diện tích quá nhỏ nên bà Nh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chỉ làm giấy tay chuyển nhượng cho bà Đ, hiện tại nhà và đất của bà Đ đang ở chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nay nguyên đơn khởi kiện và có yêu cầu như trên, bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng Đ không đồng ý và có yêu cầu:

+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 17,1m2 (vị trí E, D2) thuộc một phần thửa đất số 1275, tờ bản đồ số 01, mà ông Phan Duy H được UBND huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13-9-1995.

+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 17,1m2 (vị trí E, D2) thuộc một phần thửa đất số 142, 143, tờ bản đồ số 07, mà bà N, bà T2 được UBND huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04-6-2013.

Riêng đối với yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Nguyễn Thị Mộng Đ sử dụng phần đất có diện tích 119m2 đất (khu D, E) thuộc một phần thửa đất số 142, 143 tờ bản đồ số 7, loại đất lúa, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An. Nay bà Nguyễn Thị Mộng Đ xin được rút lại yêu cầu này, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện TT tỉnh Long An có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

Tại Công văn số 1724/UBND-NC ngày 17-3-2020, Ủy ban nhân dân huyện TT có ý kiến trình bày:

- Ngày 13-5-1995, ông Phan Duy H được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu số A 137074, trong đó có các thửa đất số 1022, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tờ bản đồ số 1, đất trồng lúa, đất Ao (NTS) và đất thổ (ONT).

Ngày 10-5-2013, Phòng Tài nguyên và Môi trường đính chính các thửa đất số 1022, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tờ bản đồ số 01 sang các thửa đất số 74, 142, 143 và 131, tờ bản đồ số 07, tổng diện tích 5.346,9m2 đất trồng lúa và đất ở tại nông thôn, theo sổ bộ quản lý trên trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A137074 của ông Phan Duy H.

Năm 2013, ông Phan Duy H tặng cho các thửa đất số 74, 142, 143 và 131, tờ bản đồ số 07, tổng diện tích 5346,9m2 đất trồng lúa và đất ở tại nông thôn cho con ruột là Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T và bà N, bà T2 đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại Công văn số 544/UBND-NC ngày 29-01-2021, Ủy ban nhân dân huyện TT có ý kiến trình bày:

- Ngày 13-9-1995, UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu số A 137074, trong đó có các thửa đất số 1020, 1161, 1275, 1276, 1277, 1278 và 1279, tờ bản đồ số 01, đất trồng lúa, đất Ao và đất thổ cho ông Phan Duy H. Theo bản đồ địa chính và sổ mục kê quản lý năm 1989 tương ứng với các thửa đất số 438, 569 và 1664, tờ bản đồ số 01 thể hiện chủ sử dụng các thửa đất là ông Phan Duy H (thửa đất số 438 và 569), bà Nguyễn Thị Nh (thửa đất số 1664).

- Ngày 13-9-1995, UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu số A 137064, trong đó có các thửa đất 1272, 1273, 1274 và 1392, tờ bản đồ số 1, tổng diện tích 3770m2 đất trồng lúa cho bà Nguyễn Thị Nh. Theo bản đồ địa chính và sổ mục kê quản lý năm 1989 tương ứng với các thửa đất số 586, 1567 và 589, tờ bản đồ số 01 thể hiện chủ sử dụng đất là ông Bùi Văn G (thửa đất số 586), bà Nguyễn Thị Nh (thửa 1567 và 589).

Năm 2002, bà Nguyễn Thị Nh chuyển nhượng các thửa đất số 1272, 1273 và 1274, tờ bản đồ số 1, tổng diện tích 2540m2 đất trồng lúa cho ông Bùi Văn G theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 95 CN lập tại xã BT ngày 03-01- 2022. Ông Bùi Văn G được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 862736 ngày 09-5-2022.

Ngày 02-6-2014, Phòng Tài nguyên và Môi trường đính chính các thửa đất số 1272, 1273, 1274, tờ bản đồ số 01 sang các thửa đất số 164, 174, 175, tờ bản đồ số 07, tổng diện tích 3047,8m2 đất trồng lúa theo sổ bộ quản lý trên trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U862736 của ông Bùi Văn G.

Năm 2014, ông Bùi Văn G và vợ là bà Nguyễn Thị Lai tặng cho con là Bùi Văn S một phần các thửa đất số 164, 175, 174 phần (I) và 174 phần (II), tờ bản đồ số 07, tổng diện tích 1380m2 và ông S đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại Công văn số 6610/UBND-NC ngày 13-9-2022, Ủy ban nhân dân huyện TT có ý kiến trình bày:

1. Phần đất tranh chấp tại các vị trí F diện tích 172,9m2, vị trí E diện tích 9,9m2 và phần tiếp giáp vị trí E có kích thước cạnh 1,4m x 4,6m x 1,8m x 4,3m theo Mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện TT phê duyệt ngày 01-11-2019, tại thời điểm cấp giấy ngày 13-9-1995 thuộc thửa đất số 1275, tờ bản đồ 01.

2. Phần đất tranh chấp tại các vị trí F (thuộc một phần thửa đất số 143) diện tích 172m2, vị trí E (thuộc một phần thửa) diện tích 9,9m2 và phần tiếp giáp vị trí E (thuộc một phần thửa đất số 142) có kích thước cạnh 1,4m x 4,6m x 1,8m x 4,3m theo Mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện TT phê duyệt ngày 01-11-2019, tương ứng với thửa đất số 1664, tờ bản đồ 1 trên bản đồ địa chính và sổ mục kê quản lý năm 1989.

3. Việc UBND huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho ông Phan Duy H ngày 13-9-1995 trong đó có các thửa đất số 1020, 1161, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tờ bản đồ 01, đất trồng lúa, đất Ao và đất thổ tương ứng với các thửa đất số 438, 569, 1664, tờ bản đồ 1 thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ theo bản đồ địa chính, không đo đạc thực tế nên có sự sai lệch đối tượng sử dụng. Đối với yêu cầu của các đương sự, căn cứ hồ sơ được cung cấp, UBND huyện TT đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử theo luật định.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2022/DS-ST ngày 30-9-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:

Căn cứ Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai 2013. Tuyên xử:

1/ Đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu của bị đơn ông Bùi Văn S và bà Nguyễn Thị T2, yêu cầu công nhận cho ông Bùi Văn S và bà Nguyễn Thị T2 sử dụng phần đất có diện tích 172,9m2 đất (khu F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7, loại đất lúa, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

2/ Đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu của bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng Đ, yêu cầu công nhận cho bà Nguyễn Thị Mộng Đ sử dụng phần đất có diện tích 119m2 đất (khu D, E) thuộc thửa đất số 142, 143 tờ bản đồ số 7, loại đất lúa, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Mộng Đ trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế 17,1m2 (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 142 và 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

Bà Nguyễn Thị Mộng Đ được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích đo đạc thực tế 17,1m2 (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 142 và 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T2 và ông Bùi Văn S trả lại phần đất đo đạc diện tích thực tế 172,9m2 (Vị trí F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

Bà Nguyễn Thị T2, ông Bùi Văn S được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích đo đạc thực tế 172,9m2 (tại vị trí F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

5. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mộng Đ về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phan Duy H, bà Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 137074 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho ông Phan Duy H vào ngày 13-9-1995 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 17,1m² (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 1275, tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 548574, BO 548575 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T vào ngày 04-6-2013 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 17,1m² (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 142, 143, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

6. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T2, ông Bùi Văn S về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phan Duy H, bà Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 137074 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho ông Phan Duy H vào ngày 13-9-1995 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 172,9m² (vị trí F), thuộc một phần thửa đất số 1275, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 548574, BO 548575 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T vào ngày 04-6-2013 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 172,9m² (vị trí F), thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

7. Phần đất vị trí E diện tích 9,9m2, vị trí D2 diện tích 7,2m2 và vị trí F diện tích 172,9m2 được thể hiện Mảnh trích đo địa chính do Công ty TNHH đo đạc nhà đất TT đo vẽ và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện TT duyệt ngày 01- 11-2019 và Mảnh trích đo địa chính do Công ty TNHH đo đạc nhà đất TT đo vẽ ngày 21-7-2022, được kèm theo bản án này.

8. Các bên đương sự có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục kê khai và điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến chi phí tố tụng; án phí dân sự sơ thẩm; quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07-10-2022, bà Phan Thị Minh T kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 66/2022/DS-ST ngày 30-9-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng vị trí D2 với 9,9 m2 và vị trí E với 7,2 m2 hiện bà Đ đang sử dụng thuộc một phần thửa số 142, 143, tờ bản đồ số 7 và diện tích 172,9m2 (vị trí F) hiện bà T2, ông S đang quản lý thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7 đều có nguồn gốc từ đất do ông Phan Duy H là cha của bà T2, bà Đ đã được cấp giấy chứng nhận năm 2013. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử buộc các bị đơn tháo dỡ tài sản trên đất để trả lại đất cho bà N, ba Trang.

- Người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn cho rằng các bị đơn mua đất của bà Nh trước khi ông H được cấp giấy chứng nhận và sử dụng từ đó đến nay nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ thể hiện các bị đơn đều nhận chuyển nhượng đất từ bà Nh trước đó và ông H đã xây hàng rào sát đất của bị đơn làm ranh giới. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Bà Phan Thị Minh N, bà Phan Thị Minh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng Đ rút lại phần yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Nguyễn Thị Mộng Đ được sử dụng phần đất có diện tích 119m2 đất (khu D, E) thuộc một phần thửa đất số 142, 143, tờ bản đồ số 7. Đồng thời, bị đơn bà Nguyễn Thị T2 và ông Bùi Văn S xin rút yêu cầu công nhận cho ông Bùi Văn S và bà Nguyễn Thị T2 sử dụng phần đất có diện tích 172,9m2 đất (khu F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7, loại đất lúa, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là đúng pháp luật.

[2] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T đề nghị bà Nguyễn Thị Mộng Đ tháo dỡ tài sản trả lại tổng 17,1m2, (vị trí E, D2) thuộc một phần thửa đất số 142, 143, tờ bản đồ số 7 tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An. Đồng thời đề nghị bà T2, ông S trả lại đất khu F có diện tích 172,9m2 cho bà N, bà T2:

[2.1] Đối với tổng 17,1m2 (vị trí E, D2): Xét, vị trí D2 với diện tích 9,9 m2 và vị trí E với 7,2 m2 thuộc một phần thửa số 142, 143, tờ bản đồ số 7 có nguồn gốc từ đất do bà Nguyễn Thị Nh đã bán cho bà Đ (giá 01 chỉ vàng năm 1992). Diện tích đất tiếp giáp lộ chòi thiết và một bên tiếp giáp đất của ông Phan Duy H (cha của bà N, bà T2). Theo ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện TT khẳng định bà Nguyễn Thị Nh là chủ sử dụng thửa đất số 1664, tờ bản đồ số 01 do bà Nh đã đăng ký kê khai có ghi tại Sổ mục kê năm 1989. Theo Công văn số 6610/UBND thì diện tích 17,1m2 tương ứng một phần thửa đất số 1664, tờ bản đồ 01 trên, thời điểm năm 1995 khi cấp giấy chứng nhận cho ông H thuộc thửa 1275. Ông H được cấp giấy chứng nhận (lần đầu) ngày 13-9-1995 đối với các thửa số 1020, 1161, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279 tương ứng với các thửa đất số 438, 569, 1664, do không đo đạc nên có sự sai lệch đối tượng sử dụng. Mặt khác, Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26-7-2022, thể hiện: Giữa phần đất còn lại của bà N, bà T2 với phần đất có tổng 17,1m2 (vị trí E, D2) có trước thời điểm ông Phan Văn H tặng cho con gái là bà N, bà T2 và ông H đã xây một hàng rào kiên cố, cột rào bê tông cốt thép, chân rào xây gạch, phía trên rào lắp song sắt. Tổng 17,1m2 nằm phía ngoài rào và bà Đ có làm một mái che kết cấu cột sắt, kèo sắt mái tole nền láng xi măng trên đất. Như vậy, diện tích 17,1m2 thuộc thửa 1664, tờ bản đồ số 01 mua của bà Nguyễn Thị Nh và sử dụng từ 1992 đến nay. Việc nguyên đơn bà N, bà T2 cho rằngbị đơn bà Đ lấn chiếm sử dụng là không chính xác.

[2.2] Đối với diện tích 172,9m2, vị trí F thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7 cũng có nguồn gốc của bà Nguyễn Thị Nh. Năm 2002, bà Nh chuyển nhượng cho ông Bùi Văn G (cha ông S) 03 thửa đất ruộng số 1272, diện tích 875m2; thửa đất số 1273, diện tích 612m2; thửa đất số 1274 với 1053m2; giáp cặp lộ làng ấp BL 2 và phần đất cặp lộ làng và giáp với đất của ông Phan Duy H. Năm 2014, ông Bùi Văn G làm thủ tục tặng cho vợ chồng ông S, bà T2 một phần các thửa đất trên với tổng 1.380m2 đất. Vợ chồng ông S, bà T2 đã sử dụng phần đất này từ năm 2014 cho đến nay. Hiện ông S đang quản lý sử dụng làm chuồng trại chăn nuôi và trồng dừa. Theo lời khai của bà Nh thì khi xây dựng lộ chòi thiết còn thừa lại diện tích nhỏ không giáp đất ông H nên bà Nh đã bán cho ông Bùi Văn G. Sau đó, ông S sử dụng nhốt gà và trồng dừa từ đó đến nay. Hơn nữa, Ủy ban nhân dân huyện TT khẳng định bà Nguyễn Thị Nh là chủ sử dụng thửa đất số 1664, tờ bản đồ số 01 theo bản đồ địa chính và sổ mục kê quản lý năm 1989, tương ứng thửa đất số 1664, tờ bản đồ 01 trước đây cấp giấy ngày 13-9-1995 thuộc thửa đất số 1275, tờ bản đồ 01. Mặt khác, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (lần đầu) cho ông Phan Duy H thửa đất số 1020, 1161, 1275, 1276, 1277, 1278, 1279, tương ứng với thửa đất số 438, 569, 1664 cũng không đúng đối tượng sử dụng. Ngoài ra, giữa phần đất còn lại ông H đã xây một hàng rào kiên cố: Cột rào bê tông cốt thép, chân rào xây gạch, phía trên rào thiết kế song sắt. Phần đất tranh chấp diện tích 172,9m2 nằm phía ngoài tường rào nêu trên và bà T2, ông S xây dựng nhà kho và trồng cây ăn trái, cây kiểng trên đất. Như vậy, diện tích 172,9m2 có nguồn gốc thuộc thửa đất số 1664, tờ bản đồ số 01 của bà Nguyễn Thị Nh. Sau đó, bà Nh chuyển nhượng lại cho ông Bùi Văn G và ông G tặng cho con Bùi Văn S, bà Nguyễn Thị T2 nên Tòa án cấp sơ thẩm bác đơn của bà N, bà T2 là đúng pháp luật.

[3] Như phân tích ở phần [2.1], [2.2], diện tích đất tranh chấp tổng 17,1m2 (vị trí E, D2) thuộc một phần thửa đất số 142, 143 là đất của bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng Đ và đất khu F có diện tích 172,9m2 của bị đơn bà Nguyễn Thị T2, ông Bùi Văn S.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Đ đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phan Duy H đối với phần đất tranh chấp diện tích 17,1m2, thuộc một phần thửa 1275 tờ bản đồ số 01, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà N, bà T2 đối với phần đất tranh chấp diện tích 17,1m2, thuộc một phần thửa đất số 142, 143 tờ bản đồ số 01. Đồng thời, chấp nhận yêu cầu bà T2, ông S đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H đối với 172,9m2 đất thuộc một phần thửa số 1275, tờ bản đồ số 01, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà N, bà T2 đối với 172,9m2 là đúng pháp luật.

Từ phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở chấp nhận đơn kháng cáo của bà Phan Thị Minh N, bà Phan Thị Minh T. Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

[4] Về án phí: Bà Phan Thị Minh N, bà Phan Thị Minh T không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ nêu trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn bà Phan Thị Minh N, bà Phan Thị Minh T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2022/DS-ST ngày 30-9-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Xử:

Áp dụng Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai 2013.

1/ Đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu của bị đơn ông Bùi Văn S và bà Nguyễn Thị T2, yêu cầu công nhận cho ông Bùi Văn S và bà Nguyễn Thị T2 sử dụng phần đất có diện tích 172,9m2 đất (khu F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 7, loại đất lúa, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

2/ Đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu của bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng Đ, yêu cầu công nhận cho bà Nguyễn Thị Mộng Đ sử dụng phần đất có diện tích 119m2 đất (khu D, E) thuộc thửa đất số 142, 143 tờ bản đồ số 7, loại đất lúa, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Mộng Đ trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế 17,1m2 (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 142 và 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

Bà Nguyễn Thị Mộng Đ được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích đo đạc thực tế 17,1m2 (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 142 và 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T2 và ông Bùi Văn S trả lại phần đất đo đạc diện tích thực tế 172,9m2 (Vị trí F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

Bà Nguyễn Thị T2, ông Bùi Văn S được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích đo đạc thực tế 172,9m2 (tại vị trí F) thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 1, tọa lạc ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

5. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mộng Đ về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phan Duy H, bà Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 137074 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho ông Phan Duy H vào ngày 13-9-1995 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 17,1m² (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 1275, tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 548574, BO 548575 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T vào ngày 04/6/2013 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 17,1m² (tại vị trí E diện tích 9,9m2 và vị trí D2 diện tích 7,2m2), thuộc một phần thửa đất số 142, 143, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

6. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T2, ông Bùi Văn S về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phan Duy H, bà Phan Thị Minh N và bà Phan Thị Minh T. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 137074 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho ông Phan Duy H vào ngày 13-9-1995 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 172,9m² (vị trí F), thuộc một phần thửa đất số 1275, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 548574, BO 548575 do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho bà Phan Thị Minh N, Phan Thị Minh T vào ngày 04-6-2013 đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 172,9m² (vị trí F), thuộc một phần thửa đất số 143, tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại ấp BL 2, xã BT, huyện TT, tỉnh Long An.

7. Phần đất vị trí E diện tích 9,9m2, vị trí D2 diện tích 7,2m2 và vị trí F diện tích 172,9m2 được thể hiện Mảnh trích đo địa chính do Công ty TNHH đo đạc nhà đất TT đo vẽ và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện TT duyệt ngày 01- 11-2019 và Mảnh trích đo địa chính do Công ty TNHH đo đạc nhà đất TT đo vẽ ngày 21-7-2022, được kèm theo bản án này.

8. Các bên đương sự có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục kê khai và điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

II. Về án phí:

Bà Phan Thị Minh N, bà Phan Thị Minh T phải mỗi người chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền mỗi người đã nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo Biên lai lần lượt số 0001430, 0001429 cùng ngày 12-10-2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An. Bà Phan Thị Minh N, bà Phan Thị Minh T đã nộp đủ án phí.

Các Quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 24 - 4- 2023./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cá biệt số 219/2023/DS-PT

Số hiệu:219/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:24/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về