Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 53/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 53/2023/DS-PT NGÀY 20/02/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 373/2022/TLPT- DS ngày 29 tháng 8 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy quyết định điều chỉnh ranh giới, diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy việc chỉnh lý diện tích đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, yêu cầu mở lối đi”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2022/DS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2082/2022/QĐ-PT ngày 28 tháng 10 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1919; Địa chỉ: ấp C, xã T, huyện Th, tỉnh Long An, (ông Th chết ngày 07/4/2018).

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Th:

1/. Bà Trần Thị Th, sinh năm 1925 (chết ngày 28/4/2021).

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Th, bà Th:

2/. Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1945. (vắng mặt)

3/. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1970. (vắng mặt)

4/. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1973. (vắng mặt)

5/. Bà Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1976. (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: ấp C1, xã T, huyện Th, tỉnh Long An.

6/. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1967; Địa chỉ: ấp Đ, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An. (vắng mặt)

7/. Bà Nguyễn Thị Th2, sinh năm 1972; Địa chỉ: ấp 1, xã B, huyện M, tỉnh Long An. (vắng mặt)

8/. Bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1974. (vắng mặt)

9/. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm, 1969. (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp O, xã T, huyện Th, tỉnh LongAn.

10/. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1966; Địa chỉ: ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông Tr, bà D, bà L, ông S, bà Th1, ông Q, bà Ch, bà Th2, ông L: Ông Phan Phụng Đức D, sinh năm 1985; Địa chỉ thường trú: thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ liên hệ: khu phố 2, thị trấn Đ, huyện Đ1, tỉnh Long An. (Văn bản ủy quyền công chứng số 4862, quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/8/2022). (có mặt)

- Bị đơn:

1/. Ông Võ Văn T, sinh năm 1967; Địa chỉ: Ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An. (có mặt)

2/. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1954 (chết ngày 24/6/2015).

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S:

2.1/. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1983. (vắng mặt)

2.2/. Bà Nguyễn Thị Th3, sinh năm 1984. (vắng mặt)

2.3/. Ông Nguyễn Thành Kh, sinh năm 1986. (vắng mặt)

2.4/. Bà Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh năm 1988. (vắng mặt)

2.5/. Bà Phạm Thị L, sinh năm 1962. (có mặt)

Cùng địa chỉ: ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An.

2.6/. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1990; Địa chỉ: ấp V, xã T2, huyện Th, tỉnh Long An. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông T: Bà Phạm Thị L, sinh năm 1962; Địa chỉ: ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An. Giấy ủy quyền ngày 23/10/2017. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của bà Th3, ông Kh, bà Nh, bà L: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1990; Địa chỉ: ấp V, xã T2, huyện Th, tỉnh Long An. Giấy ủy quyền ngày 22/02/2022. (có mặt) 3/. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1935; Cùng địa chỉ: ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Bà Võ Thị L, sinh năm 1947. (vắng mặt)

2/. Bà Võ Thị Th, sinh năm 1955. (vắng mặt)

3/. Bà Võ Thị Ngọc Ph, sinh năm 1959. (vắng mặt)

4/. Ông Võ Quốc B, sinh năm 1963. (vắng mặt)

5/. Ông Võ Văn Đ, sinh năm 1963. (vắng mặt)

6/. Ông Võ Văn B, sinh năm 1965. (vắng mặt)

7/. Bà Võ Thị Đ, sinh năm 1970. (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của bà L, bà Th, bà Ph, ông B, ông Đua, ông B, bà Đ: Ông Võ Văn T, sinh năm 1967; Địa chỉ: ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An. Giấy ủy quyền ngày 19/10/2020. (có mặt)

8/. Ủy ban nhân dân huyện Th, tỉnh Long An; Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh Long An. (vắng mặt)

- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn L – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ông Nguyễn Văn L là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Th đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Th trình bày:

Nguồn gốc các thửa đất 914, 865 của ông Th là của ông bà để lại cho ông nội ông Th là Nguyễn Văn Q, ông Q để lại cho ông Nguyễn Văn Th, ông Th sử dụng từ khoảng năm 1961-1962 đến nay, năm 1991 ông Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 4 thửa với tổng diện tích 21.800m2, đến ngày 22/11/1997 ông Th được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Th cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 22/11/1997 với tổng diện tích 23.681m2 gồm các thửa 32 (diện tích 17.312m2) thửa 33 (diện tích 2.976m2), thửa số 865 (diện tích 2.768m2) và thửa 914 (diện tích 625m2) tờ bản đồ số 11, và số 10 tại ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An.

Ông Nguyễn Văn S được UBND huyện Th cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 871, 826 liền kề thửa 865 của ông Th. Ông Võ Văn T, bà Nguyễn Thị H cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liền kề thửa 865 của ông Th.

Quá trình sử dụng đất ông Võ Văn T, ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H đã lấn chiếm một phần thửa đất 865 của ông Th nên xảy ra tranh chấp giữa ông Th với ông S, ông T, bà H từ năm 1998, 1999 cho đến nay nhưng chưa được giải quyết xong.

Ngày 02/10/2006, UBND huyện Th ban hành Quyết định số 1830/QĐ- UBND về việc điều chỉnh ranh giới, diện tích trong hồ sơ địa chính trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các thửa 865, 871, 826 tờ bản đồ số 10, xã T1, huyện Th như sau:

Thửa 865 của ông Th diện tích 2.768m2, điều chỉnh thành diện tích 5.008m2.

Thửa 871 của ông S diện tích 3.230,8m2, điều chỉnh thành diện tích 2.947m2.

Thửa 826 của ông S diện tích 6.164,9m2, điều chỉnh thành diện tích 1.258m2.

Do đó, ông Th khởi kiện yêu cầu ông S, ông T và bà H trả đất, cụ thể như sau:

1/. Đối với ông Võ Văn T:

Yêu cầu ông Võ Văn T trả lại phần đất tại khu B1 diện tích 110,1m2, khu B diện tích 9,8m2, khu C diện tích 51,8m2, khu L diện tích 56,1m2, khu M diện tích 8,6m2, khu N diện tích 23,2m2, khu O diện tích 11,1m2; Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông T đối với phần đất tranh chấp.

Trên phần đất tranh chấp hiện nay có các bụi Tre Mạnh Tông do ông T trồng, có các cây Tràm cừ, các cây Dừa ăn trái do ông Th trồng. Trước đây ông T có đốn 22 cây Tràm do ông Th trồng trên phần đất tranh chấp nên ông yêu cầu ông T phải bồi thường cho ông giá trị 22 cây Tràm với số tiền 440.000đồng.

2/. Đối với ông Nguyễn Văn S:

Yêu cầu ông Nguyễn Văn S - do ông S đã chết nên yêu cầu bà L và các con ông S trả lại phần đất tại khu A1 diện tích 738,7m2, khu A2 diện tích 1849,1m2, khu A3 diện tích 1130,2m2, khu A4 diện tích 5,7m2; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S đối với thửa 826, 871 tờ bản đồ số 10 tại ấp C, xã T1, huyện Th, tỉnh Long An.

Trên phần đất đang tranh chấp hiện nay có các cây tràm cừ, tràm bông vàng do ông Th trồng, ngoài ra trên phần đất tranh chấp với ông S có các ngôi mộ đất, mộ đá của ông bà của ông.

Ngoài ra, trong quá trình tranh chấp từ năm 1998, 1999 thì ông S có chặt 26 cây tràm do ông Th trồng nên ông yêu cầu bà L và các con của bà L ông S phải bồi thường cho ông giá trị của 26 cây tràm với số tiền là 312.000đồng.

Trong quá trình Tòa án nhân dân huyện Th đang thụ lý giải quyết vụ án thì bên ông L có đắp 1 bờ đất để làm lối đi ra đường tỉnh 817, tuy nhiên hiện nay bà L và các đồng thừa kế của ông S đã kéo hàng rào lưới B40 chắn ngang lối đi này không cho gia đình ông L sử dụng lối đi này. Tuy nhiên, phần lối đi này nằm trong phần diện tích đất đang tranh chấp giữa ông Th với ông S. Do đó, ông L tự tạo lối đi mới trên phần đất thuộc thửa 865 tại khu A3 để đi ra đường tỉnh 817, đồng thời ông L yêu cầu bà L và các đồng thừa kế của ông S phải tháo dỡ hàng rào lưới B40 để ông L đi ra đường tỉnh 817.

3/. Đối với bà Nguyễn Thị H: Yêu cầu bà H trả lại phần đất tại các khu E diện tích 409m2, khu F diện tích 43,4m2, khu G diện tích 65m2, khu H diện tích 60,3m2, khu I diện tích 73,5m2; Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông T đối với phần đất tranh chấp Vị trí đất tại các khu trên được thể hiện theo Mảnh trích đo địa chính số 08- 2022 do công ty TNHH đo đạc nhà đất H đo vẽ ngày 14/01/2022 và được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Th duyệt ngày 17/01/2022.

Bị đơn ông Võ Văn T trình bày: Lời trình bày của ông L về nguồn gốc là không đúng. Nguồn gốc khu đất này là của ông Nguyễn Văn V (ông Nội của ông S) để lại cho ông Nguyễn Văn T1 (cha ông S) và ông T1 để lại cho ông Nguyễn Văn S. Ông Võ Văn C là cha của ông T được ông V cho phần đất giáp sông V đất để cất nhà ở từ thời Pháp, ông C đã sử dụng đất ổn định từ khi được cho đến năm 2007 thì ông C chết, ông T là con ruột của ông C sống với ông C từ nhỏ, sau khi ông C chết thì ông tiếp tục sử dụng đất. Theo ông T được biết thì phần đất của ông Th cũng được ông bà của ông S cho cặp sông V để cất nhà ở, phần đất còn lại là đất nghĩa địa nên ông bà của ông S để đất làm nơi chôn chung cho dòng họ và những dân ở gần đó. Ông Nguyễn Văn V có cho ông C khoảng 200-300m2 đất làm đất nghĩa địa chôn chung, hiện tại trên đất ông T có chôn cất cha mẹ ông trên đất.

Năm 1975 ông C có đào con kênh chiều ngang 3m, chiều dài khoảng 30m để làm ranh giữa đất ông C và ông Th, ngoài ra ông C còn đào hầm cá ngang 8m, dài khoảng 20m trên đất của ông C, khi ông C đào kênh và ao không ai tranh chấp. Giữa phần đất của ông C và ông Th có cái Ụ tự nhiên ngang khoảng 6m, dài khoảng 10m để đậu xuồng, nhưng gia đình ông Th đã san lấp từ từ gần hết phần cái Ụ này, hiện trạng Ụ còn lại khoảng 0,5m ngang. Quá trình sử dụng đất bên ông Th cho rằng ông C và ông T lấn đất của ông Th nên đã tranh chấp từ năm 1998 cho đến nay. Ông Th cho rằng ông C và ông T chặt cây Tràm của ông Th trồng trên phần đất nên yêu cầu bồi thường như trên, nhưng ông xác định rằng phần đất tranh chấp là của gia đình ông và tràm là do gia đình ông trồng nên không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông Th. Ông không lấn đất của ông Th nên không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th.

Phạm Thị L, bà Nguyễn Thị C là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Nguyễn Văn S và là người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S trình bày: Lời trình bày của ông L về nguồn gốc đất là hoàn toàn không đúng. Toàn bộ khu đất hiện nay tại các thửa 914, 865, 897, 893, 871, 826 có nguồn gốc đất là của ông Nguyễn Văn M (ông cố của ông S) để lại cho ông Nguyễn Văn V (ông nội ông S), ông V để lại cho ông Nguyễn Văn T1 (cha ông S) và ông T1 để lại cho ông Nguyễn Văn S. Đến thời Pháp thì ông M có cho ông Nguyễn Văn Đ là bác của ông Th phần đất cặp sông V để cất nhà ở, ông Th sống chung với ông Đ từ nhỏ, sau khi ông Đ chết thì ông Th vẫn sử dụng đất cặp sông V, đối với phần đất thuộc thửa 865 hiện nay là đất nghĩa địa lúc đó ông bà của ông S để cho mọi người trong dòng họ và người dân ở gần đó chôn chung nên phần đất thuộc thửa 865, 826 không có bờ ranh, trên đất có nhiều ngôi mộ đá, mộ đất, ông bà của ông Th cũng chôn trên phần đất này. Việc ông Th sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mẫu bìa trắng và mẫu bìa đỏ bên ông S không biết. Đến nay 1998, 1999 ông Th tranh chấp với ông S cho rằng ông S đã chặt Tràm của ông Th trồng trên đất ông Th đã được cấp giấy lúc đó ông S mới biết ông Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do là đất nghĩa địa nên không có bờ ranh và Tràm trên đất là của ông bà ông S trồng. Vào khoảng tháng 01/2013 ông S có đốn khoảng mười mấy cây Tràm trên đất của ông S, không phải đất của ông Th.

Việc tranh chấp đất và cây trồng trên đất từ năm 1999 đến năm 2006 chưa được giải quyết xong thì ngày 02/10/2006 UBND huyện Th ban hành Quyết định số 1830/QĐ-UBND về việc điều chỉnh diện tích thửa đất 865 của ông Th và thửa 871, 826 của ông S là không đúng quy định của pháp luật. Trước khi điều chỉnh diện tích đất cán bộ xã, huyện không tiến hành họp dân để xác định nguồn gốc đất và ranh đất thực tế sử dụng. Do đó, bà không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th. Bà yêu cầu hủy Quyết định số 1830/QĐ-UBND ngày 02/10/2006 của UBND huyện Th và yêu cầu hủy việc chỉnh lý diện tích đất thửa 865 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Th ngày 07/10/2013.

Việc gia đình ông L tự đắp bờ đất làm lối đi ra đường tỉnh 817, một phần lối đi này thuộc quyền sử dụng đất của ông S nên bà L đã kéo hàng rào lưới B40 chắn ngang lối đi này không cho ông L đi trên lối đi này. Phần đất tại khu A3 thuộc thửa 865 của ông Th, bà L và các con ông S không tranh chấp khu A3 do đó đề nghị ông L tự đắp lối đi mới trên khu A3, bà L và các con sẽ tháo dỡ hàng rào lưới B40 cho ông L đi ra đường tỉnh 817 trên lối đi mới này.

Bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Lời trình bày của ông L về nguồn gốc đất là hoàn toàn không đúng. Nguồn gốc đất ông Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của ông Nguyễn Văn M ông cố của ông S để lại. Ông Nguyễn Văn Đ là bác của ông Th được ông V cho phần đất cặp sông V cất nhà ở thời Pháp, sau đó ông Đ tản cư bỏ đi đến khoảng năm 1982 ông Th mới trở về sống trên phần đất này.

Nguồn gốc đất của bà H là của ông bà của bà H để lại, bà H đã sử dụng đất từ thời Pháp đến giờ, giữa phần đất của bà H với phần đất của gia đình ông S (đã cho ông Th ở) có con kênh tự nhiên, quá trình sử dụng bà H đào con kênh này rộng thêm để thông ra sông V, con kênh này do bà H đào bên phần đất của bà và đắp bờ sang phần đất của ông Th. Bà H đã sử dụng đất ổn định từ thời Pháp đến nay không có ai tranh chấp, đến năm 1998, 1999 sau khi ông Th được cấp giấy đỏ thì ông Th cho rằng bà H lấn đất của ông Th nên phát sinh tranh chấp. Dọc theo bờ kênh do bà H đào bà có trồng hàng cây lùn phía bên bờ ranh của ông Th, từ mép hàng cây Lùn trở qua thửa 865 là của ông Th, tờ mép hàng cây Lùn trở qua kênh thửa đất số 911 là đất của bà H. Phần đất ông Th tranh chấp với bà H là phần bờ kênh do bà H đào kênh lấy đất đắp lên, bà H không lấn đất của ông Th nên không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th.

Đối với phần đất nghĩa địa tiếp giáp với phần đất thổ mà ông Th cất nhà ở là đất của gia đình ông S, phần đất này từ thời ông V còn sống ông V ông T1, ông S dùng để làm nơi chôn cất của những người trong họ và những người dân gần đó, do đó ông Th khởi kiện yêu cầu ông S trả lại đất là không đúng.

UBND huyện Th có văn bản yêu cầu giải quyết vắng mặt và có ý kiến trình bày cụ thể như sau:

Tại Văn bản số 902/UBND-NC ngày 16/8/2016 của UBND huyện cho rằng cơ sở để ban hành Quyết định số 1830/QĐ-UBND ngày 02/10/2006 là căn cứ vào biên bản số 56/BB.UBND ngày 03/8/2006 của UBND huyện Th về việc bàn biện pháp giải quyết đơn khiếu nại tranh chấp đất đai; Biên bản ngày 16/8/2006 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Th và UBND xã T1 về việc kiểm tra hiện trạng ranh giới các thửa đất số 865, 914 tiếp giáp các thửa 897, 871, 826 cùng tờ bản đồ số 10 xã T1; Tờ trình số 251/Ttr-TN&MT ngày 19/9/2006 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Th về việc điều chỉnh ranh giới và diện tích trong hồ sơ địa chính và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các thửa 865, 871, 826. Tại Văn bản số 454/UBND-NC ngày 23/3/2018, UBND huyện Th có ý kiến thống nhất không hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 826 và thửa 857 cấp cho ông S và bà H và không đồng ý hủy Quyết định số 1830/QĐ-UBND ngày 02/10/2006.

Tại Văn bản số 705/UBND-NC ngày 21/5/2019, UBND huyện Th xác định ông Nguyễn Văn Th và ông Võ Văn Sáu đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ địa chính mới năm 1997 (mẫu TW) để thay thế số liệu đăng ký trên giấy trắng năm 1991 (mẫu tỉnh) nên thông tin về hồ sơ địa chính phục vụ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 cho ông Th và ông S có giá trị pháp lý sử dụng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2022/DS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:

2015, khoản 1 Điều 31; khoản 4 Điều 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi của ông Nguyễn Văn Th do ông L là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng đã rút đối với yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất tại khu A3, I, J, M.

1. Về yêu cầu khởi kiện của ông Th đối với ông T:

1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Võ Văn T tại khu O, diện tích 11,1m2; Buộc ông Võ Văn T trả lại phần đất tại khu O cho ông Nguyễn Văn Th.

1.2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Võ Văn T tại khu N diện tích 23,2m2 và khu B1 diện tích 110,1m2. Ông Võ Văn T được quyền sử dụng đất tại khu N và khu B1.

1.3. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th đối với ông Võ Văn T về việc yêu cầu ông T bồi thường 22 cây Tràm trị giá 440.000 đồng.

2. Về yêu cầu khởi kiện của ông Th đối với bà H:

2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bà Nguyễn Thị H tại khu E, diện tích 409m2; Buộc bà Nguyễn Thị H trả lại phần đất tại khu E cho ông Nguyễn Văn Th.

2.2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bà Nguyễn Thị H tại khu H diện tích 60,3m2, khu G diện tích 65m2 và khu F diện tích 43,4m2. Bà Nguyễn Thị H được quyền sử dụng đất tại khu H, G, F.

3. Về yêu cầu khởi kiện của ông Th đối với ông S.

3.1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Nguyễn Văn S khu A1 diện tích 738,7m2, khu A2 diện tích 1.849,1m2, khu A4 diện tích 5,7m2, khu B2 diện tích 9,8m2. Bà Phạm Thị L và các con ông S được quyền sử dụng phần đất tại khu A1, A2, A4, B2.

3.2. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Văn Th đối với ông Nguyễn Văn S về việc yêu cầu ông S bồi thường 26 cây Tràm trị giá 312.000 đồng.

4. Vị trí các đất phần đất tranh chấp giữa ông Th với ông T, bà H, ông S và vị trí phần đất ông L rút yêu cầu khởi kiện được thể hiện theo Mảnh trích đo địa chính 08-2022 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất H đo vẽ ngày 14/01/2022, được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Th duyệt ngày 17/01/2022.

5. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn L là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn Th về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Võ Văn T, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn S đối với phần đất tranh chấp.

6. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L về việc hủy Quyết định số 1830/QĐ-UBND ngày 02/10/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Th, tỉnh Long An về việc điều chỉnh ranh giới, diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy việc chỉnh lý biến động diện tích đất thửa 865 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Th ngày 07/10/2013.

7. Công nhận cho ông Nguyễn Văn L phần đất mở lối đi có diện tích 40,5m2 thuộc một phần thửa 826 tại khu A1. Buộc ông Nguyễn Văn L phải thối hoàn giá trị quyền sử dụng đất cho bà Phạm Thị L và các con của ông Nguyễn Văn S, bà L với số tiền là 2.187.000đồng.

8. Buộc bà Phạm Thị L và các con của ông Nguyễn Văn S, bà L phải tháo dỡ hàng rào lưới B40 tại khu A1 để ông L đi ra đường tỉnh 817.

9. Vị trí đất phần lối đi 40,5m2 (gồm phần lối đi tại khu A1 diện tích 32m2 và phần đất hình tam giác - theo văn bản số 05/CVHP 2022 ngày 18/02/2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất H - có diện tích 8,5m2 tiếp giáp phần lối đi tại khu A1) được thể hiện theo Mảnh trích đo địa chính 08-2022 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất H đo vẽ ngày 14/01/2022, được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Th duyệt ngày 17/01/2022, có tứ cận như sau: Cạnh Đông giáp phần còn lại của khu A1 có độ dài 8,3m; Cạnh Tây giáp thửa 857 có độ dài 12,9m, cạnh Nam giáp khu A3 (thửa 865) có độ dài (2,5m + 1,3m), cạnh Bắc giáp Đường tỉnh 817 có độ dài 2,5m.

10. Người được thi hành án và người phải thi hành án có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.

11. Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án/Cơ quan thi hành án có thẩm quyền có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng khác và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm; bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo. Ngày 28/4/2022, ông Nguyễn Văn L (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn) có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc ông Võ Văn T trả lại đất tại khu B1, C, L và bồi thường giá trị 22 cây tràm (440.000 đồng) mà ông T đã đốn; buộc bà L và các con bà L trả lại phần đất khu A1, A2, A4, B2, bồi thường 26 cây tràm (312.000 đồng), tháo dỡ hàng rào lưới B40 tại khu A1 để ông đi ra đường tỉnh 817; buộc bà H trả lại phần đất khu F, H, G; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông T, ông S, bà H đối với phần đất tranh chấp trên; bác yêu cầu của bà H về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Văn Th.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của những người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như nêu trên.

Bị đơn xác định trên phần đất tranh chấp thuộc thửa 865 hiện nay không còn mồ mả của gia đình, thân tộc của ông S vì những mồ mả này đã được các gia đình di dời đi nơi khác từ lâu, còn các mồ mả hiện nay còn trên đất thì có phải của gia đình ông Th hay không thì bị đơn không biết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị bác kháng cáo của ông L và giữ nguyên bản án sơ thẩm (có bài phát biểu kèm theo).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn L đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định và đã đóng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm, được xác định là hợp lệ nên yêu cầu kháng cáo được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Ông Nguyễn Văn Th khởi kiện yêu cầu ông Võ Văn T phải trả lại phần đất có diện tích 334,2m2 và bồi thường 22 cây tràm với số tiền là 440.000 đồng; Yêu cầu ông Nguyễn Văn S phải trả lại phần đất có diện tích 1.996,1m2 và yêu cầu bồi thường 26 cây Tràm với số tiền là 312.000 đồng; Yêu cầu bà Nguyễn Thị H phải trả lại phần đất có diện tích 651,7m2; Yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn S, ông Võ Văn T đối với phần đất tranh chấp, yêu cầu bà Phạm Thị L (vợ ông S) phải mở lối đi cho gia đình ông Th ra Tỉnh lộ 817. Bà Phạm Thị L là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn S yêu cầu hủy Quyết định số 1830/QĐ-BND ngày 02/10/2006 của Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Th về việc điều chỉnh ranh giới, diện tích của các thửa đất 865, 871, 826 tờ bản đồ số 10 tại xã T1, huyện Th, tỉnh Long An và yêu cầu hủy việc chỉnh lý diện tích đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 865 của ông Nguyễn Văn Th.

[3] Hộ ông Võ Văn T, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn Th, ông Nguyễn Văn S được UBND huyện Th cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cụ thể như sau:

Ông Võ Văn C (cha ông Võ Văn T) được UBND huyện Th cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00220 QSDĐ/1101-LA ngày 07/11/1997 các thửa 303, 337, 453, 586, 595, 897 với tổng diện tích 38.944m2.

Bà Nguyễn Thị H được UBND huyện Th cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00645 QSD Đ/1101-LA ngày 22/11/1997 các thửa đất 16, 139, 164, 592, 614, 619, 627, 857, 911 tổng diện tích 81.118m2.

Ông Nguyễn Văn Th được UBND huyện Th cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 67906 QSDĐ/1101-LA ngày 22/11/1997 thửa 865 diện tích 2.768m2, thửa 914 625m2, thửa 32 diện tích 17.312m2, thửa 33 diện tích 2.976m2.

Ông Nguyễn Văn S được UBND huyện Th cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01769 QSDĐ/1101-LA ngày 08/3/1999 thửa đất số 663 diện tích 17.504m2, thửa đất số 826 diện tích 6.164,9m2, thửa đất số 871 diện tích 3.230,8m2.

Ngày 02/10/2006, UBND huyện Th ban hành Quyết định số 1830/QĐ- UBND điều chỉnh ranh giới, diện tích trong hồ sơ địa chính và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng các thửa đất 865, 871, 826; cụ thể:

+ Thửa 826 diện tích 2.768,6m2 điều chỉnh thành diện tích 5.008m2, chủ sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Th;

+ Thửa 871 diện tích 3.230,8m2 điều chỉnh thành diện tích 2.947m2, chủ sử dụng đất ông Nguyễn Văn S;

+ Thửa 826 diện tích 6.164,9m2 điều chỉnh thành diện tích 1.258m2.

Với lý do có sai sót trong quá trình đo vẽ lập bản đồ và hồ sơ địa chính.

[4] Quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự đều thống nhất với kết quả đo vẽ tại Mảnh trích đo địa chính số 08-2022 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất H đo vẽ ngày 14/01/2022, được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Th duyệt ngày 17/01/2022. Theo đó nguyên đơn tranh chấp với các bị đơn diện tích đất và vị trí cụ thể như sau:

- Ông Nguyễn Văn Th tranh chấp với ông Nguyễn Văn S, bà Phạm Thị L phần đất khu A1, A2, A4, B2 tổng diện tích 2.603,3m2 (thuộc một phần thửa 826, tờ bản đồ số 10 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 01769QSDĐ/1101-LA do UBND huyện Th cấp cho ông Nguyễn Văn S đứng tên ngày 08/3/1999; Thuộc một phần thửa 865, tở bản đồ số 10 theo Quyết định số 1830/Q Đ-UBND ngày 02/10/2006 của UBND huyện Th về việc điều chỉnh ranh giới, diện tích trong hồ sơ địa chính và trên GCNQSDĐ của các thửa đất số 865, 871, 826 tờ bản đồ số 10 xã T1, huyện Th, tỉnh Long An).

- Ông Nguyễn Văn Th tranh chấp với bà Nguyễn Thị H phần đất khu F, E, G, H có tổng diện tích 577,7m2.

- Ông Nguyễn Văn Th tranh chấp với ông Võ Văn T phần đất khu L, C, O, N, B1 có tổng diện tích 380,7m2.

- Đối với các phần đất khu A3, I, J, M quá trình xét xử sơ thẩm phía nguyên đơn đã rút lại yêu cầu khởi kiện; các đương sự khác trong vụ án cũng không có tranh chấp nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án đối với các diện tích đất này là đúng quy định tại Điều 5; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Về nguồn gốc đất khu A1, A2, A4, B2 ông Nguyễn Văn Th tranh chấp đối với hộ ông Nguyễn Văn S, bà Phạm Thị L:

[5.1] Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th và những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Th (do ông Nguyễn Văn L đại diện) xác định phần đất khu A1, A2, A4, B2 nằm trong thửa đất số 865. Nguồn gốc thửa đất 914, 865 là của ông Nguyễn Văn Q (ông nội ông Th) để lại cho ông Th từ trước năm 1975, ông Th sử dụng trồng cây, làm nghĩa địa, đến năm 1991 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mẫu bìa trắng của UBND tỉnh Long An, đến ngày 22/11/1997 ông Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo mẫu bìa đỏ. Trên phần đất tranh chấp, có mồ mã ông bà của gia đình ông Th.

[5.2] Bị đơn ông Nguyễn Văn S (có bà Phạm Thị L và các con của ông S, bà L kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng), bà Nguyễn Thị H, ông Võ Văn T trình bày nguồn gốc các thửa đất 914, 865, 871, 826 có diện tích là 15.000m2 là ông Nguyễn Văn M (ông cố của ông S) để lại cho ông Nguyễn Văn V (ông nội ông S), ông V để lại cho ông Nguyễn Văn T1 (cha ông S). Phần đất trên là đất nghĩa địa giao cho ông T1 (ông T1 chết giao lại cho ông S) quản lý làm nơi chôn cất của những người trong thân tộc và ngoài họ. Thời Pháp, ông M, ông V có cho ông Nguyễn Văn Đ là bác của ông Th cất nhà ở cặp sông V, ông Th sống chung với ông Đ từ nhỏ, sau đó ông Đ tản cư bỏ đi, đến năm 1982 thì ông Th mới trở lại sử dụng 2 thửa đất này. Hiện nay phần đất khu A1, A2, A4, B2 nằm trong thửa 826 ông Nguyễn Văn S đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1999.

[5.3] Để chứng minh cho lời trình bày của mình về nguồn gốc đất, các bên đương sự (ông S và ông Th) đều cung cấp bản cam kết của những người làm chứng, cho rằng phần đất tranh chấp có nguồn gốc do ông bà các bên để lại, chôn cất những người trong thân tộc mình; ngoài ra không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh về nguồn gốc đất.

Ngày 31/8/1999, ông Đỗ Văn Nh (con rể ông S) lập đơn xin xác nhận thửa đất số 170 diện tích 15.000m2 là đất nghĩa địa, có nguồn gốc ông Nguyễn Văn T1 quản lý, sử dụng, để lại cho ông S; ngày 21/5/2000, ông Nguyễn Văn S cũng lập đơn xin xác nhận với nội dung tương tự. Các đơn xin xác nhận này được đại diện UBND xã T1 ký xác nhận. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào xác nhận này của UBND xã T1 ngày 31/8/1999 và ngày 23/5/2000 cho rằng lời trình bày của ông Nguyễn Văn S là có căn cứ, xác định nguồn gốc đất tại các thửa 914, 865, 871, 826 là của ông bà của ông S để lại.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy kết luận nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm là không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bởi lẽ: Theo Chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 13/10/1990 cho ông Nguyễn Văn T1 (cha ông S) được sử dụng 05 thửa đất gồm 124, 128, 172, 170, 171, tờ bản đồ số 3, tổng diện tích 45.900m2; trong đó có thửa 170 là đất NĐ, diện tích 15.000m2 (BL342). Tại Văn bản số 705/UBND-NC ngày 21/5/2019 (BL479- 482), UBND huyện Th xác định 02 thửa đất số 826, 871 cấp cho ông Nguyễn Văn S năm 1999 thuộc một phần các thửa 177, 554, 170 tờ bản đồ địa chính năm 1990; thửa đất 865, 914 cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Th là một phần thửa đất 176, 554 tờ bản đồ địa chính năm 1990 (ông T1 không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 176, 554).

Như vậy, không có cơ sở để xác định thửa đất 865, 914 cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Th có nguồn gốc do ông bà ông Nguyễn Văn S tạo lập, quản lý, sử dụng; sau đó cho ông Nguyễn Văn Th về ở trên đất.

[6] Theo Chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 13/10/1990 thì ông Nguyễn Văn T1 được sử dụng 05 thửa đất 124, 128, 172, 170, 171, tờ bản đồ số 3, tổng diện tích 45.900m2. Tại Văn bản số 705/UBND-NC ngày 21/5/2019 (BL479-482), UBND huyện Th xác định trong các thửa đất nêu trên, chỉ có thửa 170 liên quan đến khu đất tranh chấp; đồng thời xác định 02 thửa đất số 826, 871 cấp cho ông Nguyễn Văn S năm 1999 thuộc một phần các thửa 177, 554, 170 tờ bản đồ địa chính năm 1990; thửa đất 865, 914 cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Th là một phần thửa đất 176, 554 tờ bản đồ địa chính năm 1990.

Đối chiếu với bản đồ địa chính năm 1990 do UBND huyện Th cung cấp (BL424) thấy rằng thửa đất 176 cấp cho hộ ông Th có chiều dài cạnh tiếp giáp với thửa 170 cấp cho ông S. Trong khi đó, bản đồ địa chính lập năm 1997 lại thể hiện thửa 865 (nguyên trước đây là thửa 176) không tiếp giáp với thửa 826 (nguyên trước đây là thửa 170) về chiều dài; thửa 826 có vị trí tiếp giáp về chiều ngang đối với thửa 865.

Ngày 16/8/2006 Phòng Tài nguyên và Môi trường kết hợp với UBND xã T1 tiến hành kiểm tra đo đạc hiện trạng thực tế ranh giới các thửa đất số 865, 914, 897, 871 và 826 tờ bản đồ số 10 xã T1 để đối chiếu bản đồ địa chính lập năm 1997 đã phát hiện ra sai sót như sau: Về ranh giới các thửa đất: Thửa đất số 865, 914 chủ sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Th, có ranh giới tiếp giáp các thửa đất số 897, 871 có số đo ngoài thực địa là 55m và 15m không trùng khớp với số đo của bản đồ địa chính; Thửa đất số 865 chủ sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Th, có ranh giới tiếp giáp thửa đất 826; Trên bản đồ địa chính thể hiện không đúng theo ranh giới ngoài thực địa; Thửa đất số 865 và 826 chủ sử dụng của ông Nguyễn Văn Th và ông Nguyễn Văn S, có một phần diện tích bị mất do thi công tuyến lộ liên xã. Ngày 19/9/2006, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Th ban hành Tờ trình số 251/TTr-TN-MT có nội dung: Đối chiếu với bản đồ địa chính năm 1997 và ranh đất trên thực tế thì phát hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa 865, 914, 826 có sự sai sót; kết quả kiểm tra thực tế và đối chiếu với bản đồ địa chính năm 1990 thì thửa 865 có ranh giới tiếp giáp với thửa 826; thửa 865, 826 có một phần diện tích bị mất do thi công tuyến lộ liên xã. Theo trích lục bản đồ địa chính ngày 19/9/2006 kèm theo Tờ trình số 251/TTr-TN-MT thì thửa đất 865 tiếp giáp với thửa 826 về bên phải, theo chiều dài và thửa 865 có chiều ngang hết thửa giáp lộ liên xã. Hình thể, vị trí các thửa đất theo kết quả đối chiếu của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Th ngày 19/9/2006 phù hợp với hình thể, vị trí các thửa đất theo bản đồ địa chính năm 1990. Do đó, ngày 02/10/2006, UBND huyện Th đã ban hành Quyết định số 1830/QĐ-UBND điều chỉnh diện tích thửa 865 của ông Th từ diện tích 2.768,6m2 thành 5.008m2; thửa 871 của hộ ông S từ 3.230,8m2 thành 2.947m2; thửa 826 diện tích 6.164,9m2 thành diện tích 1.258m2 là đúng hiện trạnh ranh đất thực tế từ năm 1990 đến nay.

Theo Trích lục Bản đồ địa chính ngày 11/3/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thuận Hóa thì thửa 865 của hộ ông Th tiếp giáp toàn bộ bề ngang với Đường tỉnh 817 (bao gồm khu đất A1, A2, A4, B2 mà gia đình ông Th và gia đình ông S đang tranh chấp); thửa 826 cấp cho hộ ông S có vị trí song song với thửa 865 và bề ngang giáp Đường tỉnh 817.

[7] Về quá trình sử dụng khu đất A1, A2, A4, B2:

Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 05/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thì trên phần đất khu A1, A2, A4 có các cây tràm và nhiều ngôi mộ nằm rải rác (mộ đất và mộ đá); phần lớn các ngôi mộ không rõ tên tuổi. Các cây tràm trên khu đất tranh chấp hiện nay do gia đình ông S, bà L trồng; thời điểm trồng được các bên xác định là năm 2019- 2020.

Xét thấy, phần đất các bên tranh chấp là đất nghĩa địa, trên đất ngoài các cây tràm, các ngôi mộ và con đường đá nối ra đường Tỉnh 817 do gia đình ông Th làm thì không có công trình, vật kiến trúc hay tài sản nào khác. Đối với các cây tràm trên đất hiện nay, các bên đương sự thống nhất do bà Phạm Thị L trồng nhưng thời điểm điểm trồng 2019 - 2020, sau khi các bên đã phát sinh tranh chấp. Đối với các ngôi mộ trên đất, gia đình ông Th cho rằng các ngôi mộ là của người trong thân tộc ông Th; gia đình ông S, bà L cho rằng các ngôi mộ là của người trong thân tộc ông S nhưng đều không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh về quan hệ nhân thân; đồng thời các ngôi mộ đa phần không có tên nên không đủ cơ sở để xác định là mộ của thân tộc của bên nào.

Năm 1999, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn T1 (cha ông S), bà Nguyễn Thị H tổ chức chặt cây tràm ông Nguyễn Văn Th trồng trên phần đất tranh chấp và đã bị Tòa án nhân dân huyện Th, Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phạt về tội “Hủy hoại tài sản công dân” (Bản án hình sự sơ thẩm số 04.HSST ngày 20/3/2000 của TAND huyện Th, Bản án hình sự phúc thẩm số 40.HSPT ngày 26/5/2000 của TAND tỉnh Long An). Tại các biên bản hỏi cung bị can ngày 04/8/1999; ngày 04, 08 và 14 /9/1999 của Công an huyện Th, ông Nguyễn Văn S trình bày như sau: “Tôi và Nguyễn Thị H sau khi cúng kiếng xong thì có một số người (tôi không nhớ) đưa lên ý kiến là phải dọn dẹp khu nghĩa địa của 6 Th để dời mồ mã về”, " Thửa đất mà tôi và gia đình dòng họ chặt phá cây trước đây đã tranh chấp nhiều lần chủ yếu là do ông Nguyễn Văn Th làm đơn kiện mà lý do ông Th kiện là vì phần đất này ông 6 Th canh tác như trồng cây và cất nhà ở từ năm 1980 trong khi ông Th trồng cây thì ông già tôi là Nguyễn Văn T1 cùng bà Nguyễn Thị H nhổ cây bỏ và phá hoại cây trồng của ông Th". Tại biên bản ghi lời khai ngày 07/6/1999, ông Nguyễn Văn S khai “Toàn bộ số cây mà tôi và gia đình đã chặt là do ông Th trồng”. Lời khai của bà Nguyễn Thị H tại Công an huyện Th cũng xác định phần đất nghĩa địa do ông Nguyễn Văn Th quản lý; vào ngày 16/01/1999 âm lịch, ông T1, ông S, bà H đã đốn cây trồng của ông Th trên phần đất nghĩa địa để di dời mồ mả của ông bà từ nơi khác về chôn cất tại đây. Như vậy, có căn cứ xác định trước đây ông Th là người quản lý, trồng cây trên đất cho đến khi các bên phát sinh tranh chấp.

Ngoài ra, trên phần diện tích khu A1, A2 có con đường đi lót đá nối từ khu D (nhà ở của gia đình ông Th) ra đường Tỉnh lộ 817; các bên thống nhất do gia đình ông Th làm và sử dụng từ năm 2013 đến nay; ngoài con đường này; gia đình ông Th không còn đường đi nào khác để ra đường bộ.

[8] Phần đất khu A3 nguyên đơn, bị đơn không tranh chấp; phía bị đơn thống nhất công nhận cho gia đình ông Th phần đất khu A3. Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 05/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thì giữa khu đất A1, A2, A4, B2 với khu A3 nối liền với nhau và không có ranh giới, đều là đất trồng tràm. Toàn bộ khu A và khu D (hiện là phần nhà và vườn của gia đình ông Th) cũng không có ranh giới phân chia.

Đối chiếu với bản đồ địa chính năm 1990, trích lục bản đồ địa chính ngày 19/9/2006 kèm theo Tờ trình số 251/TTr-TN-MT của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Th và Trích lục Bản đồ địa chính ngày 11/3/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Th như đã phân tích tại mục [6] thì có cơ sở xác định khu đất A1, A2, A4, B2 và A3, khu D cùng nằm chung trong một thửa đất, kéo dài từ bờ sông V ra đường Tỉnh lộ 817.

[9] Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở xác định phần đất khu A1, A2, A4, B2 nằm trong thửa đất số 865 thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Nguyễn Văn Th và gia đình ông Th đã sử dụng ổn định từ năm 1980 đến nay. Đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp lần đầu thửa 865 cho ông Th, thửa 826 cho ông S, UBND huyện Th xác định là có sai sót và đã điều chỉnh bằng Quyết định số 1830/QĐ-UBND ngày 02/10/2006 của UBND huyện Th. Ông Th khởi kiện yêu cầu ông S (có bà L và các con kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng) phải trả lại cho ông Th phần đất khu A1, A2, A4, B2 là có cơ sở chấp nhận.

[10] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th đối với bà Nguyễn Thị H liên quan đến phần đất khu F, E, G, H:

Đối với phần diện tích khu E, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn Th. Sau khi xét xử sơ thẩm, bà H đồng ý với bản án sơ thẩm, không có kháng cáo; ông L đại diện cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn có kháng cáo nhưng tại biên bản làm việc ngày 05/5/2022, ông L rút lại kháng cáo đối với phần diện tích tại khu E nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với phần đất khu F, G, H: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông L và bà H thừa nhận giữa thửa đất 865 của ông Th và thửa 911, 857 của bà H có con mương dẫn nước. Bà H xác định con mương do bà H đào và sử dụng từ thời Pháp đến nay. Ông L cho rằng đây là con mương tự nhiên. Xét thấy, theo bản đồ địa chính lập năm 1990, 1997 đều không thể hiện giữa thửa đất nhà ông Th và nhà bà H có con mương tự nhiên; bên phần đất nhà ông Th (giáp con mương) có trồng 01 hàng cây nhỏ và 01 cây lớn để phân chia phần đất của hai bên. Ranh đất theo hồ sơ địa chính kèm theo Quyết định số 1830/QĐ-UBND cũng thể hiện phần đất khu F, G, H thuộc quyền sử dụng đất cấp cho bà Nguyễn Thị H. Do đó, ông Th khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị H trả lại phần đất khu F, G, H là không có cơ sở chấp nhận.

[11] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th đối với ông Võ Văn T liên quan đến khu L, C, O, N, B1:

[11.1] Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 05/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thì diện tích khu M là ụ xuồng, khu L, C là mương nước kéo dài từ khu M đến khu N, O; giữa hai bên mương nước, ông T và ông Th đều trồng hàng cây tràm, các bên xác định cây tràm của bên nào, bên đó tự trồng; khu N, O là phần đất trống nằm giữa khu A, B (tranh chấp với nhà ông S) và nhà của ông T (không có tranh chấp); giữa phần N, O và phần đất nhà ông T có 01 bụi tre do ông T trồng kéo dài từ phần mộ của gia đình ông T đến hết chiều ngang khu N, O; khu B1 là phần đất trồng tràm, trên đất có 01 mộ đất không rõ của ai.

[11.2] Đối với phần đất khu B1:

Khu B1 tiếp giáp với khu B2 và khu A; không có ranh giới các thửa đất.

Trên khu B1 có cây tràm và 01 ngôi mộ đất, không rõ của ai.

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông T chặt cây tràm trên khu B1 nhưng ông Th không có ý kiến phản đối, xem như thừa nhận việc sử dụng đất của ông T cũng là không có cơ sở. Tại các biên bản hòa giải của xã T1 đều ghi nhận việc ông T chặt cây trên đất nên giữa ông Th, ông T phát sinh tranh chấp; UBND xã T1 hòa giải không thành.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng khu B1 thực chất nằm trong thửa 826 của ông S, ông S không phản đối việc ông T sử dụng nên cần công nhận cho ông T là không có cơ sở bởi lẽ khu B1 liền thửa với khu A và B2 mà theo nhận định của Hội đồng xét xử tại các mục [5] đến [9] nằm trong thửa 865, thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hộ ông Nguyễn Văn Th.

[11.3] Đối với phần đất khu N, O và khu L, C:

Khu N, O phần đất trống nằm giữa khu B và phần nhà, vườn của ông T. Giữa khu N, O và phần đất nhà, vườn của ông T có 01 hàng cây tre gia đình ông T trồng, kèo dài từ phần mộ của gia đình ông T đến hết chiều ngang khu N, O.

Khu L, C là con mương dẫn nước. Ông T cho rằng con mương do ông C (cha ông T) đào từ năm 1975 để dẫn nước; sau đó Tới là người tiếp tục sử dụng. Phía ông Th cho rằng đây là con mương do gia đình ông Th đào. Các bên đương sự đều không đưa ra được chứng cứ chứng minh con mương do mình đào. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông Th không trình bày được con mương đào năm nào; công nhận lời trình bày của phía ông T là chưa đủ cơ sở.

Khu L, C là con mương dẫn nước, phía ông T đã trồng hàng cây tràm bên phần đất nhà ông T dọc theo con mương; hàng cây tràm này nối liền với bụi tre gia đình ông T trồng để ngăn chia phần nhà ông T với phần đất N, O đã nêu ở trên. Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 05/12/2022, ông T cũng xác định giữa phần khu L các bên tranh chấp, ông Th có trồng cây dừa để làm ranh; phía ông T thừa nhận sự tồn tại của cây dừa này.

[11.4] Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ trên thực tế sử dụng thì phần đất thuộc quyền sử dụng của ông T được tính từ hàng cây tràm dọc theo khu L, C và bụi tre dọc theo khu N, O trở vào. Ông Th khởi kiện yêu cầu ông T trả lại diện tích đất tranh chấp tại khu L, C, N, O, B1 là có cơ sở chấp nhận.

[12] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn L (đại diện những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn); sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Th đối với ông Nguyễn Văn S, ông Võ Văn T; chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Th đối với bà Nguyễn Thị H về tranh chấp quyền sử dụng đất.

[13] Đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Văn S, ông Võ Văn T, bà Nguyễn Thị H, thấy rằng: do phát hiện ra sai sót trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ngày 02/10/2006 UBND huyện Th đã ban hành Quyết định số 1830/QĐ-UBND về việc điều chỉnh ranh giới, diện tích trong hồ sơ địa chính và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các thửa đất 865, 871 và 826 tờ bản đồ số 10, xã T1, vì vậy các bên đương sự căn cứ bản án phúc thẩm này và Quyết định 1830 để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng thực tế sử dụng. Việc tuyên hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp là không C thiết nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của phía nguyên đơn.

[14] Đối với yêu cầu buộc ông Võ Văn T bồi thường 22 cây tràm trị giá 440.000 đồng; ông Nguyễn Văn S bồi thường 26 cây tràm trị giá 312.000 đồng, thấy rằng: Quá trình các bên tranh chấp từ năm 1999 đến nay, việc bồi thường cây tràm đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/HSST ngày 20/3/2000, ngoài ra, không có cơ sở để xác định chính xác giá trị cây tràm tại thời điểm bị đốn chặt. Do đó, Hội đồng xét xử bác yêu cầu này của phía nguyên đơn.

[15] Do sửa án sơ thẩm nên án phí và chi phí tố tụng sơ thẩm được tính lại như sau:

Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét, thẩm định tại chỗ sơ thẩm 36.273.000 đồng: Do yêu cầu khởi kiện của ông Th đối với ông S, ông T được chấp nhận nên ông S, ông T phải chịu; yêu cầu khởi kiện của ông Th đối với bà Nguyễn Thị H được chấp nhận một phần nên ông Th, bà H mỗi người phải chịu một phần. Cụ thể ông S và ông T mỗi người phải chịu 12.091.000 đồng; ông Th, bà H mỗi người phải chịu 6.045.500 đồng. Do ông Th đã tạm ứng các chi phí trên nên ông S và ông T mỗi người phải thanh toán lại cho ông Th 12.091.000 đồng; bà H phải thanh toán lại cho ông Th 6.045.500 đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn Th, ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H là người cao tuổi nên được miễn.

Ông Võ Văn T phải chịu 300.000 đồng.

[16] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Nguyễn Văn L không phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn L. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2022/DS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Tuyên xử:

1/. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi của ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) do ông Nguyễn Văn L là đại diện những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng đã rút đối với yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất tại khu A3, I, J, M.

2/. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th đối với ông Võ Văn T:

2.1/. Buộc ông Võ Văn T trả lại cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) phần đất tại khu B1 diện tích 110,1m2; phần đất tại khu O, diện tích 11,1m2; phần đất tại khu N diện tích 23,2m2; phần đất tại khu C, diện tích 2,1m2; phần đất tại khu L, diện tích 2,1m2.

Công nhận cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) được quyền sử dụng các phần diện tích đất khu B1, O, N, C, L.

2.2/. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th đối với ông Võ Văn T về việc yêu cầu ông Võ Văn T bồi thường 22 cây tràm trị giá 440.000 đồng.

3/. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th đối với bà Nguyễn Thị H:

3.1/. Buộc bà Nguyễn Thị H phải trả lại cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) quyền sử dụng đất tại khu E, diện tích 409m2.

Công nhận cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) được quyền sử dụng phần diện tích khu E.

3.2/. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bà Nguyễn Thị H tại khu H diện tích 60,3m2, khu G diện tích 65m2 và khu F diện tích 43,4m2. Bà Nguyễn Thị H được quyền sử dụng đất tại khu H, G, F.

4/. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th đối với ông Nguyễn Văn S.

4.1/. Buộc ông Nguyễn Văn S (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Th3, ông Nguyễn Thành Kh, bà Nguyễn Thị Hồng Nh, bà Phạm Thị L, bà Nguyễn Thị C) phải trả cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) quyền sử dụng đất đối khu A1 diện tích 738,7m2, khu A2 diện tích 1.849,1m2, khu A4 diện tích 5,7m2, khu B2 diện tích 9,8m2.

Công nhận cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) được quyền sử dụng đất khu A1, A2, A4, B2.

Buộc những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn S gồm ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Th3, ông Nguyễn Thành Kh, bà Nguyễn Thị Hồng Nh, bà Phạm Thị L, bà Nguyễn Thị C phải tháo dỡ hàng rào lưới B40 tại khu A1 để trả lại quyền sử dụng đất cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn Th.

4.2/. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Văn Th đối với ông Nguyễn Văn S về việc yêu cầu ông S bồi thường 26 cây tràm trị giá 312.000 đồng.

5/. Vị trí các đất phần đất được thể hiện theo Mảnh trích đo địa chính 08- 2022 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất H đo vẽ ngày 14/01/2022, được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Th duyệt ngày 17/01/2022.

6/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Võ Văn T, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn S đối với phần đất tranh chấp.

Các đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.

Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án/Cơ quan thi hành án có thẩm quyền có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp) theo quyết định của bản án này.

7/. Về án phí, chi phí tố tụng sơ thẩm:

- Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét, thẩm định tại chỗ sơ thẩm 36.273.000 đồng:

Ông Nguyễn Văn S (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Th3, ông Nguyễn Thành Kh, bà Nguyễn Thị Hồng Nh, bà Phạm Thị L, bà Nguyễn Thị C) và ông Võ Văn T, mỗi người phải thanh toán lại cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) 12.091.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị H phải thanh toán lại cho ông Nguyễn Văn Th (có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng gồm ông Nguyễn Văn Tr, ông Nguyễn Văn S, ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị Ch, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn L) 6.045.500 đồng.

- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn Th, ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị H là người cao tuổi nên được miễn. Ông Võ Văn T phải chịu 300.000 đồng.

Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Th (do ông Nguyễn Văn L đại diện những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng) số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 200.000 đồng theo biên lai thu số 00247 ngày 10/4/2014 và số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.037.500 đồng theo biên lai thu số 00169 ngày 11/02/2014 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Th, tỉnh Long An.

8/. Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Nguyễn Văn L không phải chịu. Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn L số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000367 ngày 05/5/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.

9/. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

10/. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

11/. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 53/2023/DS-PT

Số hiệu:53/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về