Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu huỷ cập nhật thay đổi trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt số 263/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 263/2022/DS-PT NGÀY 25/04/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HUỶ CẬP NHẬT THAY ĐỔI TRANG 4 GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 481/2021/TLPT- DS ngày 25 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hỷ cập nhật thay đổi trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2021/DS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2951/2022/QĐ-PT ngày 28 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Tôn Thất Tr, sinh năm 1938. (có văn bản xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: đường Đ, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Tôn Nữ Thu L, sinh năm 1961.

Địa chỉ: đường Tr, Phường Z, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Bà Phan Thị Đ, sinh năm 1954. (có văn bản xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: đường D, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Phan Thị Lệ Th, sinh năm 1961. (có văn bản xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: đường N, Phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Bà Tôn Nữ Trang Th, sinh năm 1993.

Địa chỉ: đường D, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phan Thị Lệ Th, sinh năm 1961.

Địa chỉ: đường N, Phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (có văn bản xin xét xử vắng mặt)

2/. Ông Hoàng Trung B, sinh năm 1991. (vắng mặt)

Địa chỉ: đường D, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

3/. Văn phòng công chứng Phạm Thị Thùy Tr Người đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị Thùy Tr. (vắng mặt)

Địa chỉ: đường Ph, Phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

4/. Ủy ban nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Ngọc Tr – Chức vụ: Phó Chủ tịch. (có văn bản xin xét xử vắng mặt)

- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

- Người kháng cáo: Ông Tôn Thất Tr.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Tôn Thất Tr trình bày:

Từ trước giải phóng (năm 1975) ông Tôn Thất Tr được cha mẹ để lại một lô đất với diện tích khoảng 500m2 tại 56 đường Đ, Phường X, thành phố Đ. Đến năm 1992 thì ông Tr có cho cháu là bà Phan Thị Đ 100m2 đất có bề ngang 5m và chiều dài là 20m, đất có tứ cận: Phía Đông giáp nhà ông Tr, phía Tây giáp đường Đ, phía Nam giáp nhà ông H và phía bắc giáp nhà ông Tr. Tại thời điểm cho đất thì đường Đ (PT cũ) chưa thể hiện lộ giới, đến năm 2003 nhà nước làm đường nhựa và có trừ lộ giới là 5m tính từ mép đường vào sân nhà. Do đó, diện tích đất mà ông Tr cho bà Đ không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, bà Đ mượn ông Tr 25m2 đất để đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định và hai bên có lập giấy cam kết mượn đất. Tuy nhiên, sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà Đ không trả lại phần diện tích đất đã mượn mà còn tặng cho con gái là bà Tôn Nữ Trang Th. Vì vậy, ông Tôn Thất Tr yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc bà Phan Thị Đ trả lại diện tích đất 25m2 thuộc thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ ngày 20/5/2015 tại thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất giữa bà Phan Thị Đ và bà Tôn Nữ Trang Th theo hợp đồng công chứng số 003276, quyển 71-TP/CC-SCC/HĐGD ngày 18/4/2019 tại Văn phòng Công chứng Phạm Thị Thùy Tr.

Hủy cập nhật thay đổi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất cho bà Tôn Nữ Trang Th ngày 08/5/2019 tại mục những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 ngày 20/5/2015 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Phan Thị Đ và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tôn Nữ Trang Th (con bà Đ) là bà Phan Thị Lệ Th trình bày:

Vào năm 1992 ông Tôn Thất Tr có tặng cho bà Phan Thị Đ diện tích 100m2 đất tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nguồn gốc thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) là di sản thừa kế của ông Tôn Thất H để lại cho con cháu, trong đó có cháu ngoại là bà Phan Thị Đ. Bà Đ đã sinh sống trên thửa đất này từ trước năm 1977 cho đến nay, đến năm 2003 thì được UBND Phường X, thành phố Đ xây nhà đại đoàn kết theo diện hộ nghèo với diện tích 30.53m2 đúng với vị trí theo giấy cho đất ngày 10/02/1992 của ông Tôn Thất Tr. Bà Đ sử dụng đúng với diện tích đất mà ông Tr và vợ là bà Nguyễn Thị Ph tặng cho, phù hợp với biên bản họp hội đồng gia tộc về việc phân chia di sản thừa kế và các giấy cho đất cũng như đơn xin xác nhận nguồn gốc đất của bà Đ và không mượn 25m2 đất như ông Tr trình bày. Vì vậy, trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà Phan Thị Đ và bà Tôn Nữ Trang Th không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Trung B (chồng bà Thanh) trình bày:

Ông được biết thửa đất tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ là do ông Tôn Thất Tr tặng cho bà Phan Thị Đ sau đó bà Đ tặng cho bà Tôn Nữ Trang Th (là vợ ông Bách), thửa đất đã được UBND thành phố Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và gia đình ông sinh sống ổn định đúng với diện tích 100m2 mà ông Tr tặng cho. Ông thống nhất với trình bày của bà Tôn Nữ Trang Th.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Phạm Thị Thùy Tr có văn bản trình bày:

Ngày 18/4/2019, Văn phòng công chứng Phạm Thị Thùy Tr có tiếp nhận hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) địa chỉ 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, hồ sơ yêu cầu công chứng và các bên cung cấp đầy đủ theo quy định pháp luật do đó Văn phòng tiến hành chứng nhận hợp đồng theo đúng quy định. Đề nghị Tòa án xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND thành phố Đ có văn bản trình bày:

Việc UBND thành phố Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 ngày 20/5/2015 cho bà Phan Thị Đ được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Luật đất đai. Ngoài ra, tại thời điểm xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Đ, ông Tôn Thất Tr không có thắc mắc khiếu nại tại UBND Phường X, thành phố Đ. UBND thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Đ đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy chứng nhận.

Do đó, việc ông Tôn Thất Tr yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 ngày 20/5/2015 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ với diện tích 100m2 thuộc thửa 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49- I-(21 a), Phường X, thành phố Đ là không có cơ sở xem xét giải quyết.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2021/DS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2021, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã quyết định:

Căn cứ Điều 166, 167, 188, 203 Luật Đất Đai 2013;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tôn Thất Tr về việc yêu cầu bà Phan Thị Đ trả lại diện tích đất 25m2 thuộc thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

2/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr về việc Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ ngày 20/5/2015 tại thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

3/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr về việc Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất giữa bà Phan Thị Đ và bà Tôn Nữ Trang Th theo hợp đồng công chứng số 003276, quyển 71-TP/CC-SCC/HĐGD ngày 18/4/2019 tại Văn phòng Công chứng Phạm Thị Thùy Tr đối với thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

4/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr về việc Hủy cập nhật thay đổi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất cho bà Tôn Nữ Trang Th ngày 08/5/2019 tại mục những thay đổi khi cấp giấy chứng nhận của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 ngày 20/5/2015 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ đối với thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 06/7/2021, ông Tôn Thất Tr có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Ngày 06/7/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định số 317/QĐKNPT-VKS-DS kháng nghị đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Tôn Thất Tr có văn bản xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về chấp hành pháp luật: Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát rút lại Quyết định kháng nghị số 317/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ, đúng quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông Tôn Thất Tr; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của ông Tôn Thất Tr làm trong hạn luật định, là hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút lại Quyết định kháng nghị số 317/QĐKNPT-VKS- DS. Căn cứ Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 317/QĐKNPT-VKS-DS ngày 06/7/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

Các đương sự gồm ông Tôn Thất Tr, bà Phan Thị Đ, bà Tôn Nữ Trang Th, UBND thành phố Đ vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông Hoàng Trung B, Văn phòng công chứng Phạm Thị Thùy Tr được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự có tên nêu trên.

[2] Về nội dung:

Vào ngày 10/02/1992, ông Tôn Thất Tr có tặng cho bà Phan Thị Đ 100m2 đất có chiều ngang 5m và chiều dài 20m tại thửa đất 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) địa chỉ đường D (PT cũ), Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nguồn gốc phần đất này là của ông Tôn Thất H, cha của ông Tr và ông ngoại của bà Đ để lại.

Ông Tr cho rằng, năm 2003, sau khi nhà nước tiến hành làm đường nhựa thì có trừ lộ giới 5m nên đất của bà Đ thiếu 25m2 không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, bà Đ có mượn ông Tr 25m2 để đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Đ cho rằng ông Tr có tặng cho bà 100m2 đất để làm nhà ở từ đất mà ông ngoại để lại, hiện nay bà sử dụng đúng với diện tích được ông Tr tặng cho, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND thành phố cấp cho bà và không có việc lấn chiếm hay mượn đất như lời trình bày của ông Tr.

Tại Giấy cho đất nhà ngày 10/02/1992 (BL 199) và Giấy cho đất ngày 10/10/1992 (BL 197) đều thể hiện nội dung: “Nay tôi cho cháu tôi là Phan Thị Đ sinh 1954 hiện ở 56 PT 100m2 ngang 5m dài 20m mặt đường giáp đường Đ, phía Tây giáp nhà từ đường, Bắc giáp nhà Sáu My, Bắc giáp cây đu đủ. Tôi đồng ý và đã thống nhất với gia tộc là cho cháu 100m2 coi như có công trông coi nhà từ đường và nuôi ông ngoại, nay tôi viết giấy này làm bằng chứng để cho cháu tôi làm nhà ở và không ai được tranh chấp”. Tại Đơn xin xác nhận nguồn gốc đất ngày 17/8/2005 (BL 198) ông Tr và vợ là bà Nguyễn Thị Ph xác nhận có cho bà Phan Thị Đ phần đất với bề ngang 5m và chiều dài 20m.

Tại biên bản họp gia tộc (BL78) có nội dung thể hiện “Phần đất còn lại là 2.500m2 là đất hương hỏa hội đồng gia tộc thống nhất xin chia quyền thừa hưởng cho các thành viên của gia đình theo luật thừa kế quy định, trong đó có phần cháu ngoại là Phan Thị Đ là cháu có công ở và sống cùng với ông H từ nhỏ” và theo Đơn xin xác nhận nguồn gốc nhà đất ngày 05/5/2015 (BL 124) do UBND thành phố Đ cung cấp ông Tr có viết xác nhận: “Tôi Tôn Thất Tr có cho cháu tôi 100m2 đất trên đất có một căn nhà lợp tôn, từ nay về sau không tranh chấp” và có xác nhận của UBND Phường X, thành phố Đ.

UBND thành phố Đ xác định việc cấp giấy chứng nhận số BY 054787 ngày 20/5/2015 cho bà Phan Thị Đ được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Luật Đất đai. Tại thời điểm xét cấp giấy cho bà Phan Thị Đ, ông Tôn Thất Tr không có thắc mắc khiếu nại tại UBND Phường X, thành phố Đ.

Như vậy, việc tặng cho quyền sử dụng đất đã hoàn thành, việc bà Đ được công nhận quyền sử dụng đất đối với 100m2 đất tại thửa đất 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) địa chỉ đường D (PT cũ), Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng theo đúng quy định pháp luật. Việc ông Tôn Thất Tr tặng cho bà Phan Thị Đ 100m2 đất tại đường D (PT cũ), Phường X, thành phố Đ là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản họp hội đồng gia tộc về việc phân chia di sản thừa kế và các giấy cho đất, đơn xin xác nhận nguồn gốc đất, cũng như công sức đóng góp của bà Đ và ý chí của ông Tôn Thất H là người để lại di sản. Bà Đ đã nhận đất sử dụng đúng diện tích 100m2 theo như cam kết với ông Tôn Thất Tr. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 ngày 20/5/2015 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ là đúng trình tự, thủ tục và đủ căn cứ pháp lý. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Phạm Thị Thùy Tr khẳng định hồ sơ công chứng hợp đồng giữa số 003276, quyền 71- TP/CC-SCC/HĐGD ngày 18/4/2019 tại Văn phòng Công chứng Phạm Thị Thùy Tr là đúng quy định pháp luật. Do đó, việc bà Đ tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho bà bà Tôn Nữ Trang Th (là con gái) cũng là hợp pháp.

Theo giấy cho đất không thể hiện đất tặng cho có nằm trong lộ giới hay không và theo quy định thì đất lộ giới là đất trong hành lang an toàn công trình không được sử dụng, xây dựng, không thể cho tặng. Theo Tờ trình số 87/TTr/PTQD- QLDA ngày 15/3/2021 do Tòa án thu thập (BL 209-212) có nội dung “diện tích đất thu hồi 26.5m2 thuộc 1 phần thửa đất số 507, tờ bản đồ 21a, Phường X, thành phố Đ.... diện tích đất thu hồi không nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Giấy cam kết mượn đất mà ông Tr cung cấp được thực hiện sau khi UBND thành phố Đ đã xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Đ. Tại biên bản hòa giải lần 2 ngày 22/7/2014 của UBND Phường X, giữa ông Tr và bà Đ có thỏa thuận: Bà Đ giao toàn bộ giấy tờ liên quan để bà Lan liên hệ các cơ quan có thẩm quyền đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ tách cho bà Phan Thị Đ 100m2 đất ở: Phía Tây giáp đường Đ ngang 5m, bắc giáp nhà ông Tr dài 20m. Như vậy, bà Tôn Nữ Thu L là người trực tiếp đi đăng ký kê khai các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bà Đ đã giao hết toàn bộ giấy tờ liên quan cho bà Lan, do đó khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà Đ phải ký vào giấy cam kết mượn đất đến vị trí cây đu đủ để được giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình là có cơ sở. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện: Thực tế bà Đ sử dụng đúng diện tích đến cây đu đủ giáp nhà vệ sinh chứ không vượt qua phía sau cây đu đủ, là đúng với cam kết.

Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr là có căn cứ, đúng pháp luật. Do vậy, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tr, cần giữ nguyên án sơ thẩm.

[3] Ông Tôn Thất Tr là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 289, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 317/QĐKNPT-VKS-DS ngày 06/7/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Tôn Thất Tr.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2021/DS-ST ngày 23 tháng 06 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

1/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tôn Thất Tr về việc yêu cầu bà Phan Thị Đ trả lại diện tích đất 25m2 thuộc thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

2/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr về việc Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ ngày 20/5/2015 tại thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

3/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr về việc Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất giữa bà Phan Thị Đ và bà Tôn Nữ Trang Th theo hợp đồng công chứng số 003276, quyển 71-TP/CC-SCC/HĐGD ngày 18/4/2019 tại Văn phòng Công chứng Phạm Thị Thùy Tr đối với thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

4/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Tr về việc Hủy cập nhật thay đổi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất cho bà Tôn Nữ Trang Th ngày 08/5/2019 tại mục những thay đổi khi cấp giấy chứng nhận của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 054787 ngày 20/5/2015 do UBND thành phố Đ cấp cho bà Phan Thị Đ đối với thửa đất số 1018 (gốc 507), tờ bản đồ số 3 (C49-I-(21a) tại 56/5 PT, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

5/. Án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác được thực hiện theo quyết định của bản án sơ thẩm.

6/. Ông Tôn Thất Tr được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

7/. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu huỷ cập nhật thay đổi trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt số 263/2022/DS-PT

Số hiệu:263/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về