Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 80/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 80/2021/DS-PT NGÀY 11/03/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 11 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 608/2020/TLPT- DS ngày 04/12/2020 về việc: “tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 24/7/2020 của Tòa án Nhân dân tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: /2021/QĐ-PT ngày tháng năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim E, sinh năm 1942 (Có mặt).

Địa chỉ: , tỉnh Vĩnh Long.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Bùi Minh T – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Vĩnh Long. (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1969 (Có mặt).

Địa chỉ: , tỉnh Vĩnh Long.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông Trần Chính T – Luật sư Văn phòng luật sư Trần Bá Tước thuộc Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long. (Có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1973 (Vắng mặt).

2. Chị Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1995 (Vắng mặt).

3. Chị Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1999 (Vắng mặt).

4. Chị Nguyễn Ngọc L, sinh năm 2000 (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: , tỉnh Vĩnh Long.

Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị Tuyết N, Nguyễn Ngọc A, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Ngọc L có ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1969. Địa chỉ: , tỉnh Vĩnh Long. Theo văn bản ủy quyền ngày 31/8/2017 (Có mặt).

5. Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Ngọc L – trưởng phòng Tài nguyên- Môi trường huyện Tam Bình.

6. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Lê Thị Kim E trình bày:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp thửa 675 diện tích 6.690m2 và thửa 677 diện tích 2.980m2 trước đây do bà E đứng tên. Năm 1999 bà E đưa cho ông D giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hai thửa 675 và thửa 677 để thế chấp vay tiền tại Ngân hàng do Ngân hàng không cho bà E vay vì lớn tuổi nên ông D yêu cầu bà E ký giấy ủy quyền để ông D đứng tên hợp đồng vay. Đến năm 2006 bà E phát hiện ông D đã đứng tên quyền sử dụng đất thửa 675, 677 và từ năm 1999 bà không chuyển nhượng hay tặng cho ông D.

Nay bà E yêu cầu ông D phải trả lại phần thuộc thửa 675, diện tích đo đạc thực tế là 7.164,6m2, loại đất lúa và thửa 677, diện tích theo đo đạc thực tế 2.458m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, hai thửa đất cùng tờ bản đồ số 6 tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 675, diện tích đo đạc thực tế 7.164,6m2 và thửa 677, diện tích đo đạc thực tế 2.458m2 do Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp cho ông Nguyễn Văn D ngày 30/12/1999 để cho bà E đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại bản khai ý kiến ngày 13/8/2017, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Nguyễn Văn D trình bày:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp thửa 675, diện tích 6.690m2 và thửa 677, diện tích 2.980m2 trước đây bà E đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông D sống chung với bà E cùng canh tác hai thửa đất này. Khoảng năm 1998 bà E làm thủ tục tặng cho thửa đất 675 và thửa 677 cho ông D, đến ngày 30/12/1999 ông D được Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông D bà E cùng canh tác do mẹ con cùng sống chung. Đến năm 2000 ông D ra ở riêng thì hai thửa đất này do ông D trực tiếp canh tác, bà E không canh tác. Năm 2012 bà E yêu cầu trả lại thửa 675, loại đất lúa cho bà E canh tác nên ông D không còn canh tác trên thửa 675. Đối với phần đất thửa 677, loại đất màu do ông D canh tác từ xưa đến nay. Hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 675 và thửa 676 đang thế chấp để vay vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện Tam Bình – Phòng gia dịch xã Song Phú, hiện nay chưa đến thời hạn trả nợ vay. Trong trường hợp yêu cầu của bà E được chấp nhận thì ông D đồng ý trả tiền vay cho Ngân hàng khi hết thời hạn vay.

Nay ông D đồng ý để lại thửa 675, diện tích theo đo đạc thực tế là 7.164,6m2 thuộc tờ bản đồ số 6 tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long cho bà E tiếp tục canh tác. Không đồng ý sang tên cho bà E đứng tên thửa 675 và thửa 677 và không đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 675, diện tích theo đo đạc thực tế 7.164,6m2, tờ bản đồ số 6 và thửa 677, diện tích đo đạc thực tế tế 2.458m2, tờ bản đồ số 6, tọa lạc do Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp cho ông Nguyễn Văn D ngày 30/12/1999.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Tuyết N, Nguyễn Ngọc A, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Ngọc L có ông Nguyễn Văn D làm đại diện trình bày:

Thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn Văn D, không có yêu cầu độc lập trong vụ án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình có ông Trần Văn Dũng làm đại diện trình bày:

- Theo đo đạc tư liệu Chương trình đất ghi nhận:

Thửa đất số 675, tờ bản đồ số 6, diện tích 6.690m2, mục đích sử dụng: Đất chuyên trồng lúa nước do ông Nguyễn Văn D đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có số phát hành N944024, số vào sổ 38964. Đất tọa lạc .

Thửa đất số 677, tờ bản đồ số 6, diện tích 2.980m2, mục đích sử dụng Đất trồng cây hàng năm khác do ông Nguyễn Văn D đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có số phát hành N944024, số vào sổ 38964. Đất tọa lạc .

- Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 675, 677 cho ông Nguyễn Văn D được cơ quan có thẩm quyền căn cứ theo tư liệu chương trình đất đo đạc năm 1990 mà ông Nguyễn Văn D kê khai đăng ký sổ bộ là đúng đối tượng người sử dụng đất, trình tự, thủ tục theo quy định tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đối với tranh chấp giữa bà E và ông D, Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình đề nghị Tòa án xE xét các chứng cứ khác có liên quan để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Vĩnh Long trình bày:

Ông D có vay vốn tại Agribank chi nhánh huyện Tam Bình – PGD Song Phú, số tiền vay là 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng). Tài sản Ngân hàng giữ là QSDĐ số N944024 do ông Nguyễn Văn D đứng tên thửa số 675, tờ bản đồ số 6, diện tích 6.690m2, loại đất lúa; Thửa 677, tờ bản đồ số 6, diện tích 2.980m2, loại đất màu. Hiện chưa đến hạn trả. Trong trường hợp xử buộc ông D trả lại thửa 675, 677 cho bà E thì yêu cầu ông D trả hết nợ vay cho Ngân hàng.

Tại trích đo bản đồ địa chính khu đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long lập ngày 06/3/2018 thể hiện ông D đứng tên và sử dụng thửa thửa 675 có diện tích đo đạc thực tế là 7.164,6m2, loại đất lúa và thửa 677 diện tích theo đo đạc thực tế 2.458m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, hai thửa đất cùng tờ bản đồ số 6 tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long. Các đương sự thống nhất kết quả đo đạc, định giá.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2020/DS-ST ngày 24/7/2020 của Tòa án Nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:

Căn cứ Khoản 1 Điều 99, Điều 100, 166, 170, Khoản 1 Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013.

Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34 và khoản 2 Điều 37; khoản 1 Điều 147, 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim E về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn D trả lại thửa 677, diện tích thực đo 2.458m2, tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây hàng năm khác và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 677, diện tích đo đạc thực tế 2.458m2, tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây hàng năm khác, tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long do Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp cho ông Nguyễn Văn D 2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thị Kim E.

Hủy một phần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 675, diện tích đo đạc thực tế là 7.164,6m2, tờ bản đồ số 6, loại đất lúa, tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long do Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp cho ông Nguyễn Văn D ngày 30/12/1999.

Công nhận thửa 675, diện tích đo đạc thực tế là 7.164,6m2, tờ bản đồ số 6, loại đất lúa, tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long thuộc quyền sử dụng của bà Lê Thị Kim E.

(Kèm theo trích đo bản đồ địa chính ngày 06/3/2018 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long).

Đương sự liên hệ với cơ quan có thẩm quyền kê khai đăng ký theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng khác và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn không kháng cáo. Ngày 27-7-2020 bị đơn ông Nguyễn Văn D có đơn kháng cáo với nội dung: Bà E đã cho ông cả 2 thửa đất 675 và 677 và ông đã kê khai đăng ký, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cả hai thửa từ năm 1999. Ông đã sử dụng ổn định từ năm 1995 cho đến khi bà E gặp khó khăn về kinh tế thì ông mới cho bà E mượn lại thửa 675 để canh tác từ năm 2014 đến nay. Việc Ủy ban huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông là đúng pháp luật. Do đó, ông đề nghị Tòa án Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận quyền sử dụng đất thửa số 675, tờ bản đồ số 6, diện tích đo thực tế 7.164m2, đất lúa, tọa lạc tại là của ông.

- Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn ông Nguyễn Văn D vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như nêu trên.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn phát biểu: Căn cứ vào quá trình sử dụng đất và việc kê khai đăng ký phần đất tranh chấp thì đủ cơ sở kết luận là bà E đã tặng cho quyền sử dụng đất cho ông D. Việc ông D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp pháp. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn và sửa án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu: Căn cứ vào nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất thì bà E là người sử dụng đất và phía bị đơn không có giấy tờ gì chứng minh việc bà E cho bị đơn đất, việc bị đơn tự ý kê khai đất được thừa kế trong khi bà E (là mẹ) vẫn còn sống là khai báo gian dối, việc cấp giấy chứng nhận cho ông D là trái pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông D và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ và được thẩm vấn công khai tại phiên toà hôm nay, có đủ cơ sở kết luận nguồn gốc đất là của bà E, bà E sử dụng ổn định và có kê khai đăng ký theo chỉ thị 299, quá trình sử dụng đất thì ông D là con ở chung nhà với bà E nên cùng canh tác sử dụng, việc ông D cho rằng bà E tặng cho ông quyền sử dụng đất nhưng không có giấy tờ chứng minh, bà E không thừa nhận cho đất. Khi kê khai đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông D khai là thừa kế của cha mẹ là không đúng vì bà E hiện vẫn còn sống, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D là không đúng pháp luật. Đề nghị Hồi đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn D và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xE xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn D đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định, nên kháng cáo của ông D được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Nguyên đơn và bị đơn đều công nhận diện tích đất tranh chấp theo đo đạc thực tế là thửa 675 có diện tích 7.164,6m2, loại đất lúa và thửa 677 diện tích 2.458m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, hai thửa đất cùng tờ bản đồ số 6 tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long. Các đương sự thống nhất kết quả đo đạc, định giá như án sơ thẩm, không thắc mắc, khiếu nại.

[3] Nguyên đơn và bị đơn đều xác định nguồn gốc hai thửa đất 675 và 677 cùng tờ bản đồ số 6 tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long là của nguyên đơn bà Lê Thị Kim E. Điều này phù hợp với tư liệu 299/TTg ngày 10/11/1980 thể hiện bà Lê Thị Kim E có đứng tên 02 thửa đất gồm thửa 951, diện tích 22.300m2, loại đất 2L và thửa 952, diện tích 2.100m2, loại đất TQ, cả 02 thửa đất trên đều tọa lạc ấp Phú Long, xã Song Phú (nay là xã Tân Phú), huyện Tam Bình.

[4] Bị đơn ông Nguyễn Văn D cho rằng vào khoảng năm 1998 mẹ ông là bà E đã làm thủ tục tặng cho ông quyền sử dụng đất 2 thửa 675 diện tích 6.690m2, thửa 677 diện tích 2.980m2. Xét lời trình bày này của ông D là không có căn cứ để chấp nhận bởi lẽ: Nguyên đơn bà E không thừa nhận có việc bà tặng cho 2 thửa đất này cho ông D và ông D cũng không cung cấp được giấy tờ gì chứng mình việc bà E tặng cho ông 2 thửa đất này. Mặt khác theo tờ đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất do ông D ký ngày 12-4-1995 thể hiện nguồn gốc hai thửa đất 677 và 675 là ông được thừa kế, điều này hoàn toàn mâu thuẫn với lời khai của ông D khai là được bà E cho, trong khi đó bà E vẫn còn sống. Đồng thời ông D cũng thừa nhận ông và bà E ở cùng nhà, cùng canh tác trên đất và thửa 675 thì hiện nay bà E vẫn đang canh tác.

[5] Tại văn bản số 1915/UBND-NC ngày 19/11/2019 của Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cho rằng: Từ năm 1990 đến năm 1999 thửa 675, tờ bản đồ số 6, diện tích 6.690m2 loại đất lúa và thửa 677, tờ bản đồ số 6, diện tích 2.980m2 loại đất màu, cùng tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long do ông Nguyễn Văn D kê khai đăng ký sổ bộ địa chính. Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn D thửa 675, tờ bản đồ số 6, diện tích 6.690m2 loại đất lúa và thửa 677, tờ bản đồ số 6, diện tích 2.980m2 loại đất màu, cùng tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long căn cứ vào hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Nguyễn Văn D, việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông D là đúng pháp luật. Xét nội dung văn bản nêu trên là không có cơ sở chấp nhận vì quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm thì Tòa án cấp sơ thẩm đã có nhiều văn bản yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Tam Bình cung cấp toàn bộ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn D nhưng Ủy ban huyện Tam Bình không cung cấp được và cho rằng không lưu giữ hồ sơ. Hơn nữa, theo đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của ông D ký ngày 12-4-1995 xin cấp thửa 675 và thửa 677 tuy nhiên, Hội đồng đăng ký chưa ký duyệt. Do đó, việc Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 675 và 677 cho ông D là không đúng theo quy định của pháp luật đất đai.

[6] Tổng hợp, đánh giá toàn bộ các chứng cứ nêu trên cho thấy các thửa đất 675 và 677 là của bà Lê Thị Kim E, không có sự việc bà E tặng cho các thửa đất này cho ông D. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà E là có căn cứ.

[7] Tại phiên tòa sơ thẩm bà E rút một phần yêu cầu khởi kiện: Không yêu cầu ông D trả lại thửa 677, diện tích thực đo 2.458m2, tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây lâu năm khác và không yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 677 này do Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp cho ông Nguyễn Văn D ngày 30/12/1999. Ông D đồng ý với việc rút một phần yêu cầu khởi kiện. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của bà E là đúng quy định tại Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[8] Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng không cơ sở để chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn D, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[9] Về án phí: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông D do thuộc diện gia đình liệt sĩ.

[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị bác kháng cáo của ông D và giữ nguyên án sơ thẩm là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Khoản 1 Điều 99, Điều 100, 166, 170, Khoản 1 Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013.

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn D và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2020/DS-ST ngày 24/7/2020 của Tòa án Nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Tuyên xử 1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim E về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn D trả lại thửa 677, diện tích thực đo 2.458m2, tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây hàng năm khác và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 677, diện tích đo đạc thực tế 2.458m2, tờ bản đồ số 6, loại đất trồng cây hàng năm khác, tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long do Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp cho ông Nguyễn Văn D 2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thị Kim E.

Hủy một phần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 675, diện tích đo đạc thực tế là 7.164,6m2, tờ bản đồ số 6, loại đất lúa, tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long do Ủy ban Nhân dân huyện Tam Bình cấp cho ông Nguyễn Văn D ngày 30/12/1999.

Công nhận thửa 675, diện tích đo đạc thực tế là 7.164,6m2, tờ bản đồ số 6, loại đất lúa, tọa lạc , tỉnh Vĩnh Long thuộc quyền sử dụng của bà Lê Thị Kim E.

(Kèm theo trích đo bản đồ địa chính ngày 06/3/2018 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long).

Đương sự liên hệ với cơ quan có thẩm quyền kê khai đăng ký theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí sơ thẩm và phúc thẩm cho ông Nguyễn Văn D. Hoàn trả 300.000 đồng, số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm ông D đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0002725 ngày 27 tháng 7 năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Long.

4. Về chi phí khảo sát, đo đạc và định giá tổng cộng là 5.705.000 đồng. Nguyên đơn Lê Thị Kim E phải chịu chi phí khảo sát, đo đạc, định giá là 1.460.000 đồng (Một triệu bốn trăm sáu mươi ngàn đồng), ông D phải chịu 4.245.000 đồng (Bốn triệu hai trăm bốn mươi lăm ngàn đồng). Do bà E đã nộp tạm ứng trước nên ông D phải nộp 4.245.000đồng (Bốn triệu hai trăm bốn mươi lăm ngàn đồng) để trả cho bà E.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 80/2021/DS-PT

Số hiệu:80/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về