TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 66/2021/DS-PT NGÀY 01/03/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Trong ngày 01/3/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 317/2020/TLPT-DS ngày 04 tháng 8 năm 2020, về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2020/DS-ST ngày 12/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện L bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 351/2020/QĐ-PT ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Anh L, sinh năm 1967; địa chỉ: Số nhà 95/17, đường M, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị R, sinh năm 1958; địa chỉ: đường B, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ. Có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông L: Luật sư Phạm Văn K - Văn phòng Luật sư Phạm Văn K, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp; địa chỉ: Khóm 1, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Tháp. Có mặt
2. Bị đơn: Ông Ký Văn T, sinh năm 1960; địa chỉ: ấp Đ, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện theo ủy quyền: Anh Ký Văn C, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp Đ, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp (theo văn bản ủy quyền ngày 24/4/2019). Có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T: Luật sư Võ Thị Băng G - Văn phòng Luật sư Băng G, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp; địa chỉ: Số 270, khóm M, thị trấn T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Sở T tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện theo pháp luật: Ông Hồ Thanh P - Chức vụ: Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh S - Chức vụ: Phó Giám đốc - Văn phòng Đ tỉnh Đồng Tháp. Có đơn xin xét xử vắng mặt 4. Người kháng cáo: Ông Ký Văn T - Là bị đơn trong vụ án.
5. Kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Bà Trần Thị R (đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Anh L) trình bày: Ông L được Sở T tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) thửa số 2, tờ bản đồ số 24, diện tích 1.201,4m2, mục đích sử dụng là đất cây lâu năm và đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, cấp ngày 12/6/2018; thửa số 3, tờ bản đồ số 24, diện tích 1.319m2, mục đích sử dụng là đất cây lâu năm và đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, cấp ngày 12/6/2018. Nguồn gốc đất là do ông L nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Thanh B. Cả hai thửa đất nêu trên có một cạnh (mặt tiền) giáp QL 54 thuộc ấp Đ, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp. Tháng 9/2018 khi ông L tiến hành xây dựng hàng rào bao quanh khuôn viên phần đất thì ông Ký Văn T ngăn cản với lý do ông T cho rằng phần đất phía trước cặp QL 54 có diện tích theo đo đạc thực tế 84,8m2 là thuộc quyền sử dụng của ông T. Ông T đã cắm trụ đá làm hàng rào lưới B40 ngăn cách phần đất thửa số 2 và số 3 phía giáp QL 54 có diện tích 84,8m2 nêu trên. Ngày 01/9/2018 ông L ký hợp đồng cho anh Phùng Văn U thuê phần đất diện tích 5.162m2 (trong đó có phần đất thửa số 2, tờ bản đồ số 24, diện tích 1.201,4m2 và thửa số 3, tờ bản đồ số 24, diện tích 1.319m2). Sau khi làm hợp đồng ông L đã nhận tiền cọc của anh U là 50.000.000đ và thỏa thuận sẽ giao đất cho anh U vào ngày 01/01/2019. Trong hợp đồng hai bên cũng thỏa thuận nếu trong thời gian từ ngày làm hợp đồng đến ngày giao đất nếu bên nào vi phạm sẽ bồi thường gấp đôi số tiền đặc cọc. Do ông T tranh chấp đất nên ông L đã không giao được đất cho anh U và đã trả cho anh U 50.000.000đ tiền cọc và bồi thường cho anh U 50.000.000đ.
Nay ông L yêu cầu ông T trả lại diện tích đo đạc thực tế là 84,8m2 gồm các mốc M2-MC-M3-M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L (trong đó diện tích 9,7m2 thuộc một phần thửa đất số 2, tờ bản đồ số 24 và diện tích 75,1m2 thuộc một phần thửa số 3, tờ bản đồ số 24, do ông L đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ cấp ngày 12/6/2018) cho ông L được quyền sử dụng. Đồng thời, ông L yêu cầu ông T bồi thường số tiền 50.000.000đ mà ông L đã bồi thường cho anh U do không giao được đất. Đối với hàng rào lưới B40, trụ đá và cây trồng trên đất tranh chấp thì ông T tự tháo dỡ, chặt đốn ông L không bồi thường.
- Anh Ký Văn C (đại diện theo ủy quyền ông Ký Văn T) trình bày: Phần đất tranh chấp diện tích đo đạc thực tế là 84,8m2 gồm các mốc M2-MC-M3- M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L có nguồn gốc là của cha mẹ ông T tên Ký Văn K và Trần Thị N sử dụng từ trước năm 1975. Năm 1994 để lại cho ông T sử dụng diện tích khoản 1.500m2 và ông T được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Ông T xác định phần đất ông L nhận chuyển nhượng có nguồn gốc là của ông T đã chuyển nhượng cho ông X, sau đó ông X chuyển nhượng lại cho người khác ông không biết tên và những người này cũng đã chuyển nhượng lại cho ông L. Tuy nhiên, khi ông T chuyển nhượng cho ông X thì còn lại một chéo nhọn ông X không chịu mua là phần đất tranh chấp 84,8m2 hiện nay. Đồng thời, ông T xác định năm 2002 Nhà nước có thu hồi một phần đất của ông giáp với đất ông L hiện nay để làm Quốc lộ 54 và có bồi thường số tiền là 26.000.000đ nhưng ông không còn giữ giấy tờ.
Ông T không đồng ý trả lại cho ông L diện tích đo đạc thực tế là 84,8m2 gồm các mốc M2-MC-M3-M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L và không đồng ý bồi thường số tiền 50.000.000đ như ông L yêu cầu.
Ông T có yêu cầu phản tố xác định diện tích đất đo đạc thực tế là 84,8m2 nêu trên thuộc quyền sử dụng của ông T. Theo đó, yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Sở T tỉnh Đồng Tháp thu hồi 84,8m2 đất. Trong đó: Diện tích 9,7m2 đất thuộc một phần thửa số 2, tờ bản đồ số 24 và diện tích 75,1m2 thuộc một phần thửa số 3, tờ bản đồ số 24; đất tại ấp Đ, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp, do Sở T tỉnh Đồng Tháp cấp cho ông L ngày 12/6/2018 để công nhận cho ông T được quyền sử dụng.
- Sở T tỉnh Đồng Tháp có văn bản trình bày: Sở T tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận QSDĐ thửa số 2, tờ bản đồ số 24, diện tích 1.201,4m2 và thửa số 3, tờ bản đồ số 24, diện tích 1.319m2, cấp ngày 12/6/2018 cho ông L là trên cơ sở ông L nhận chuyển nhượng của bà B theo hợp đồng được xác lập ngày 28/5/2018 và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện L chứng thực. Việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với các thửa đất nêu trên cho ông L là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Phần đất diện tích đo đạc thực tế là 84,8m2 gồm các mốc M2-MC-M3- M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L, Sở T tỉnh Đồng Tháp đã cấp quyền sử dụng cho ông L ngày 12/6/2018 gồm một phần của thửa số 2 và một phần của thửa số 3, cùng tờ bản đồ số 24.
Đối với việc ông T yêu cầu thu hồi 84,8m2 đất gồm: Diện tích 9,7m2 đất thuộc một phần thửa số 2, tờ bản đồ số 24 và diện tích 75,1m2 thuộc một phần thửa số 3, tờ bản đồ số 24; đất tại ấp Đ, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp do Sở T tỉnh Đồng Tháp cấp cho ông L để công nhận cho ông T được quyền sử dụng thì đề nghị Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan để xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Sở T tỉnh Đồng Tháp sẽ thực hiện theo quyết định hoặc bản án của Tòa án đã tuyên khi có hiệu lực pháp luật.
- Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Anh L.
Buộc ông Ký Văn T phải tháo dở di dời hàng rào lưới B40; chặt đốn hoặc di dời cây trồng trên diện tích đất tranh chấp để trả diện tích đo đạc thực tế là 84,8m2 gồm các mốc M2-MC-M3-M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L (trong đó diện tích 9,7m2 thuộc một phần thửa đất số 2, tờ bản đồ số 24 và diện tích 75,1m2 thuộc một phần thửa số 3, tờ bản đồ số 24, do ông Nguyễn Anh L đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 12/6/2018) cho ông Nguyễn Anh L được quyền sử dụng.
(có Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L đính kèm).
Buộc ông Ký Văn T bồi thường thiệt hại số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) cho ông Nguyễn Anh L.
Bác yêu cầu của ông Ký Văn T về việc yêu cầu Sở T tỉnh Đồng Tháp thu hồi 84,8m2 đất gồm các mốc M2-MC-M3-M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L đất để công nhận cho ông T được quyền sử dụng.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Ký Văn T phải nộp 5.348.000đồng (năm triệu ba trăm bốn mươi tám ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Ông Ký Văn T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai số 0001912 ngày 11/12/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L, sau khi khấu trừ tiền tạm ứng án phí, ông T phải nộp tiếp 5.048.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và đo đạc: Ông Ký Văn T phải nộp 6.786.000đồng (sáu triệu bảy trăm tám mươi sáu ngàn đồng) để hoàn trả cho ông Nguyễn Anh L.
Kể từ ngày ông Nguyễn Anh L làm đơn yêu cầu thi hành án mà ông Ký Văn T chưa thi hành xong các khoản tiền phải trả cho ông L thì hàng tháng ông T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự, quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, thời hiệu thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
- Ngày 19/06/2020, ông Ký Văn T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T, công nhận cho ông T được quyền sử dụng đất đối với diện tích theo đo đạc thực tế là 84,8m2. Yêu cầu xem xét miễn tiền án phí cho ông T vì thuộc đối tượng người cao tuổi, không khả năng lao động.
- Tại phiên tòa phúc thẩm:
+ Bà Trần Thị R trình bày: Anh Nguyễn Anh L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đương sự không thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án, không cung cấp bổ sung chứng cứ mới. Đối với người nhận chuyển nhượng thửa đất số 2, 3 tìm không được nên không cung cấp được người làm chứng.
+ Luật sư Phạm Văn K trình bày: Nguồn gốc của thửa đất số 2, 3 là của ông Quân (chồng bà P) được chuyển nhượng qua nhiều người. Hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Trần Thị Thanh B với anh Nguyễn Anh L thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định. Công văn số 105/UBND-TNMT ngày 27/5/2020 và số 30/UBND-TNMT ngày 13/3/2020 của Ủy ban nhân dân huyện L (UBND Huyện) thể hiện thủ tục chuyển nhượng đất rõ ràng đúng quy định của pháp luật, phần đất tranh chấp được cấp QSDĐ cho ông L, sơ đồ thể hiện đất của ông T không giáp ranh với đất của ông L. Trình bày của các nhân chứng không bảo đảm khách quan. Theo hợp đồng thuê đất giữa ông L với ông Phùng Văn U thì ông L có trách nhiệm giao đất cho ông U đúng thời hạn, nhưng do ông T bao chiếm phần đất tranh chấp nên ông L không giao đất được cho ông U, đây là thiệt hại thực tế đã xảy ra nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông T trả đất cho ông L và bồi thường thiệt hại tài sản là có cơ sở. Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T.
+ Anh Ký Văn C trình bày: Ông Ký Văn T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo không thỏa thuận được với nguyên đơn về giải quyết vụ án, cung cấp bổ sung người làm chứng là ông L1, ông X1.
+ Luật sư Võ Thị Băng G trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của cha ông T cho ông T vào năm 1994. Sau đó, Nhà nước thu hồi một phần làm lộ nên diện tích còn lại là 962m2, đến năm 2003 thì ông T tiếp tục chuyển nhượng một phần đất cho ông X (ông X1), hiện còn lại một phần và trong đó có diện tích đang tranh chấp (phần tranh chấp ông T đăng ký nhưng không được cấp giấy chứng nhận QSDĐ). Đất của ông T giáp với đất của bà P cho ông L1 và được các nhân chứng như ông X1 (ông X1), ông L1, ông Đ xác nhận. Ông L1 được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đến giáp đất tranh chấp và vị trí đất chuyển nhượng cho ông T cũng đến giáp đất tranh chấp. Vì vậy, đề nghị chấp nhận yêu cầu của ông T và công nhận QSDĐ diện tích 84,8m2 cho ông T. Như vậy, ông T không có lỗi gây thiệt hại cho ông L, nên không phải bồi thường theo yêu cầu của ông L. Do đó, đề nghị sửa bản án sơ thẩm, đồng thời xem xét án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp ý kiến về giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung:
- Xét về kháng cáo của ông T yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết sửa bản án sơ thẩm, theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L và công nhận cho ông T được QSDĐ đối với diện tích theo đo đạc thực tế là 84,8m2 và xem xét miễn tiền án phí cho ông vì thuộc người cao tuổi.
Xét thấy, diện tích 84,8m2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L, tỉnh Đồng Tháp thuộc một phần thửa đất số 2, diện tích 1.201,4m2; thửa số 3, diện tích 1.319m2, cùng tờ bản đồ số 24, cấp giấy chứng nhận cùng ngày 12/6/2018 cho ông Nguyễn Anh L là do ông L nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Thanh B. Sở T tỉnh Đồng Tháp xác định: Việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với 02 thửa đất nêu trên cho ông L là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và cấp giấy chứng nhận đến giáp QL 54.
Tại Công văn số 105/UBND-TNMT, ngày 27/5/2020 của UBND huyện L đã xác định lịch sử biến động của thửa đất số 2, thửa số 3 như sau:
Thửa đất số 2 cấp lần đầu cho ông Nguyễn Thành Q năm 1993; cấp lần 2 cho bà Nguyễn Thị P năm 2002, do điều chỉnh giấy chứng nhận; cấp lần 3 cho ông Nguyễn Thanh H năm 2003, do nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị P; cấp lần 4 cho bà Nguyễn Thị C năm 2004, do nhận thừa kế từ ông Nguyễn Thanh H; cấp lần 5 cho bà Nguyễn Thị C, do cấp đổi giấy chứng nhận sang bản đồ địa chính chính quy; cấp lần 6 cho ông Trần Phước T và ông Quách T năm 2009, do nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị C; cấp lần 7 cho bà Nguyễn Thị Thanh B năm 2015, do nhận chuyển nhượng từ ông Trần Phước T và ông Quách T; cấp lần 8 cho Nguyễn Anh L năm 2018, do nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị Thanh B.
Thửa số 3 cấp lần đầu cho ông Nguyễn Thành Q năm 1993; cấp lần 2 cho bà Nguyễn Thị P năm 2002, do điều chỉnh giấy chứng nhận; cấp lần 3 cho ông Nguyễn Văn L, do nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị P; cấp lần 4 cho ông Nguyễn Văn L, do cấp đổi giấy chứng nhận; cấp lần 5 cho ông Trần Phước T và ông Quách T năm 2009, do nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn L; cấp lần 6 cho bà Nguyễn Thị Thanh B năm 2015, do nhận chuyển nhượng từ ông Trần Phước T và ông Quách T; cấp lần 7 cho ông Nguyễn Anh L năm 2018, do nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị Thanh B.
Ông T xác định phần đất ông L nhận chuyển nhượng có nguồn gốc là của ông T đã chuyển nhượng cho ông X, sau đó ông X chuyển nhượng lại cho người khác ông không biết tên và những người này cũng đã chuyển nhượng lại cho ông L. Tuy nhiên, khi ông T chuyển nhượng cho ông X thì còn lại một chéo nhọn ông X không chịu mua là phần đất tranh chấp 84,8m2 hiện nay. Ông T xác định năm 2002, Nhà nước có thu hồi phần đất của ông giáp với đất ông L hiện nay để làm quốc lộ 54 và diện tích đất tranh chấp là phần còn lại của diện tích đất bị thu hồi. Tuy nhiên, tại Công văn số: 30/UBND- TNMT, ngày 13/3/2020 và Công văn số: 105/UBND-TNMT, ngày 27/5/2020 của UBND huyện L xác định thửa đất 478, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.500m2 của ông T được điều chỉnh vào năm 2003, do thu hồi mở rộng QL 54 diện tích 538m2, ông T đã tách thửa 478 ra thêm thửa 1226 chuyển nhượng cho ông Trần Văn Xuân 701m2, diện tích đất còn lại thửa 478 là 261m2. Hiện nay ông T được cấp đổi là thửa số 11, tờ bản đồ số 24, diện tích 519,7m2, cấp ngày 31/12/2007. Theo Trích lục - trích đo bản đồ địa chính ngày 14/4/2003 (thời điểm tách thửa) và Bản trích sao bản đồ địa chính của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L ngày 28/5/2020, thì vị trí thửa đất 478, tờ bản đồ số 4 theo bản đồ 299 (nay là thửa đất số 11, tờ bản đồ số 24) của ông Ký Văn T cách xa và không giáp ranh với thửa số 2 và thửa số 3, cùng tờ bản đồ số 24. Ông T cho rằng đã sử dụng diện tích đất tranh chấp trồng chuối, đu đủ từ năm 1994 đến nay. Tuy nhiên, những người làm chứng tại phiên tòa khai, phần đất của ông L hiện nay qua nhiều người sử dụng là đất phi nông nghiệp phù hợp với lời trình bày của ông L. Hơn nữa, giữa phần 84,8 m2 và phần đất thửa số 2 và số 3 từ trước đến nay không có mốc giới ngăn cách. Vì vậy, ông T trình bày đất tranh chấp là của ông là không có cơ sở.
Người làm chứng ông Nguyễn Minh Đ trình bày, thửa số 2 và thửa số 3, có nguồn là của ông Đ chuyển nhượng cho ông T năm 2009, nhưng có lúc thì xác định là của ông H, ông L1 và diện tích đất tranh chấp 84,8m2 là thuộc quyền sử dụng của ông T. Ông Nguyễn Văn X1 trình bày đất tranh chấp là của ông T, vì đây là phần đất của ông T do Nhà nước thu hồi làm QL 54 còn lại. Tuy nhiên, lời trình bày của ông Đ, ông X1 không có cơ sở chứng minh và không phù hợp với tài liệu của UBND huyện cung cấp. Do đó, lời trình bày của ông Đ, ông X1 là không đảm bảo khách quan.
Từ phân tích trên không có cơ sở để chứng minh phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ông T.
Xét kháng cáo của ông T về việc bồi thường thiệt hại số tiền 50.000.000đ.
Xét thấy: Ngày 01/9/2018, giữa ông L và ông U ký hợp đồng cho thuê đất diện tích 5.162,2m2 (trong có thửa đất số 02, 03) và thể hiện ông L đã nhận số tiền cọc là 50.000.000đ, quy định thời hạn giao đất là ngày 01/01/2019 và trách nhiệm của các bên do không thực hiện hợp đồng. Theo đó, ngày 01/01/2019 là ngày ông L giao đất cho ông U nhưng ông T đã rào chắn phần đất tranh chấp. Ông U đã xác nhận do ông L không giao đất thuê theo diện tích, thời gian đã thỏa thuận trong hợp đồng nên ông L có hoàn trả tiền cọc cho ông U 50.000.000đ và bồi thường số tiền 50.000.000đ. Vì vậy, việc ông T tranh chấp với ông L làm cho ông L không giao được đất thuê và gây thiệt hại cho ông L là thực tế. Nên chấp nhận yêu cầu của ông L. Buộc ông T phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông L số tiền 50.000.000đ là phù hợp quy định của pháp luật.
- Về kháng nghị:
Xét thấy, ông Nguyễn Anh L yêu cầu ông Ký Văn T bồi thường thiệt hại số tiền 50.000.000đ. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định buộc ông T phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông L số tiền 50.000.000đ là phù hợp quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong phần Quyết định của bản án, Tòa án nhân dân huyện L không có xem xét giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của ông L là chưa giải quyết toàn diện vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (vi phạm Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015).
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông T; chấp nhận toàn bộ nội dung kháng nghị, sửa bản án dân sự sơ thẩm; về án phí xem xét theo quy định pháp luật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Ông L khởi kiện yêu cầu ông T trả diện tích đất bao chiếm và bồi thường thiệt hại tài sản, Tòa án nhân dân huyện L thụ lý giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm là đúng thẩm quyền. Ông T nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định là hợp lệ. Ông L ủy quyền cho bà R, ông T ủy quyền cho anh C thủ tục thực hiện phù hợp quy định nên chấp nhận.
[2] Bà R trình bày nguồn gốc đất là của ông L nhận chuyển nhượng của bà B, diện tích tranh chấp là 84,8m2 thuộc một phần của thửa đất số 2, 3 tờ bản đồ số 24, giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông L ngày 12/6/2018 (thửa số 2 =1.201,4m2, số 3 = 1.319m2). Đồng thời, căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông L với bà B thì đất của ông L có một cạnh giáp QL54. Vì vậy, phần đất tranh chấp là thuộc QSDĐ của ông L, nên yêu cầu ông T trả lại phần đất bao chiếm. Anh C cho rằng, trước đây ông T được cấp giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất số 478, sau khi bị thu hồi một phần diện tích làm QL 54 (tài liệu thu hồi đất đã thất lạc) và chuyển nhượng một phần diện tích cho ông X, thì diện tích còn lại 84,8m2, nên không đồng ý trả đất theo yêu cầu của ông L.
Theo Công văn số 105/UBND-TNMT ngày 27/5/2020 và số 30/UBND- TNMT ngày 13/3/2020 của UBND Huyện ý kiến: Thửa đất số 478 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.500m2, được cấp giấy chứng nhận QSDĐ lần đầu cho ông T; cấp lại lần 2 để điều chỉnh diện tích do bị thu hồi một phần mở rộng QL 54 diện tích là 538 m2; cấp lại lần 3 là do ông T làm thủ tục tách thửa 478 thêm thửa 1126 diện tích 701m2 để chuyển nhượng cho ông Trần Văn X và cấp QSDĐ cho ông X vào năm 2002; phần đất còn lại của ông T là 261m2, nhưng được cấp đổi thành thửa số 11 diện tích 519,7m2. Đồng thời, theo Trích lục - Trích đo bản đồ địa chính ngày 04/4/2003 của Phòng Nông nghiệp địa chính Huyện (bút lục số 246) thể hiện tại vị trí đất tranh chấp không có thửa 478 và theo tài liệu này thể hiện thửa 478 diện tích 1.500m2 tại thời điểm bị thu hồi đất mở rộng QL 54 thì phần diện tích còn lại là 962m2 và chỉ giáp thửa 477, 479, 492. Như vậy, diện tích 519,7m2 được cấp đổi thành thửa số 11 được thể hiện tại Sơ đồ trích sao bản đồ địa chính ngày 28/5/2020 (bút lục số 241) cũng không giáp thửa đất số 2, 3 của ông L và diện tích thừa so với QSDĐ được cấp lần đầu vào năm 1994 là 258,7m2. Nay, anh C không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh việc ông T đăng ký phần đất tranh chấp nhưng không được cấp giấy chứng nhận.
[3] Nhân chứng: Ông Đ (anh ông H, ông L1) khai trước đây bà P có chia đất cho ông H (thửa số 2), ông L1 (thửa số 3). Ông L1 nhờ ông Đ thực hiện việc chuyển nhượng đất của ông L1 cho ông T và chỉ chuyển nhượng đến giáp đất tranh chấp, nhưng không có đo thực tế mà chỉ xem hiện trạng đất. Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/12/2020, ông L1 trình bày đất của ông chưa được cấp QSDĐ và giáp với đất tranh chấp, ông có nhờ ông Đ chuyển nhượng đất giùm và ông chỉ nhận số tiền 520 triệu, còn mọi thủ tục chuyển nhượng thì ông không biết. Ông X (ông X1) khai, trước đây ông có mua của ông T một phần đất, ông T còn một chéo đất giáp lộ nhưng không có cắm mốc xác định ranh. Qua lời khai của nhân chứng, nhận thấy nhân chứng xác nhận thửa đất số 2, 3 không giáp QL 54 là không có cơ sở để chấp nhận, vì việc ông Đ chuyển nhượng đất cho ông T, ông X nhận chuyển nhượng đất của ông T thì các bên đều không có đo đạc, không có tài liệu chứng cứ để chứng minh phần đất tranh chấp là của ông T. Trong khi đó, Trích lục - trích đo bản đồ địa chính ngày 29/7/2003 của Phòng Nông nghiệp địa chính Huyện (bút lục 293), biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất số 3 ngày 27/10/2005 của UBND xã Tân Thành và trích lục bản đồ ngày 07/12/2009 Văn phòng đăng ký QSDĐ Huyện đều thể hiện phần đất của bà P cho ông L1 và ông L1 được cấp QSDĐ tại thửa số 3 có cạnh chiều ngang giáp với QL 54 và ông X1 (ông X), bà Cúc con ông H ký tên người có đất giáp ranh theo cạnh chiều dài thửa đất số 3.
Mặt khác, UBND Huyện ý kiến về lịch sử biến động của thửa đất số 2, 3 như sau: QSDĐ cấp lần đầu cho ông Nguyễn Thành Q, sau đó được chuyển nhượng, tặng cho và cấp QSDĐ sang tên lần lượt cho các chủ sử dụng tiếp theo là bà Nguyễn Thị P (02 thửa), Nguyễn Thanh H + Nguyễn Thị C (thửa số 2), Nguyễn Văn L (thửa số 3), Trần Phước T + Quách T (02 thửa), Trần Thị Thanh B (02 thửa), Nguyễn Anh L (02 thửa). Sở T tỉnh Đồng Tháp ý kiến về việc giải quyết hồ sơ chuyển nhượng QSDĐ, giữa bà B với ông L đúng trình tự thủ tục, diện tích 84,8m2 đã cấp giấy chứng nhận cho ông L và cấp QSDĐ đến giáp QL 54 (Công văn số 3245/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 21/10/2019 và số 384/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 19/02/2020). Việc chuyển nhượng QSDĐ giữa các đương sự đối với thửa đất số 2, 3 do các bên hoàn toàn tự nguyện, thủ tục phù hợp với quy định của pháp luật, QSDĐ của 02 thửa này được cấp giáp QL 54 đều được đương sự đồng ý không ai khiếu nại.
Trên thực tế thửa đất số 2, 3 là loại đất SKC và CLN, hiện trạng không có cắm mốc giới mà chỉ có vài bụi chuối do ông T trồng cặp QL 54 khoản 01 năm (ông X1 khai trồng khoản 01 năm; Bà R khai đất trống nên thấy có người trồng chuối cặp lộ cũng không nói gì). Năm 2018, ông L vào xây hàng rào và chuẩn bị san lắp thì ông T mới bao chiếm làm hàng rào lưới B40. Vậy Tòa án cấp sơ thẩm xác định phần đất tranh chấp thuộc một phần thửa đất số 2, 3 (không giáp ranh với thửa số 11 của ông T) là của ông L là có căn cứ, nên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo ông T.
[4] Xét kháng cáo của ông T về việc bồi thường thiệt hại tài sản: Nhận thấy, ngày 01/9/2018 ông L đã thỏa thuận cho ông Phùng Văn U thuê thửa đất số 2, 3, hai bên ký hợp đồng đặt cọc và đã nhận số tiền đặt cọc là 50 triệu đồng, quy định thời hạn giao đất vào ngày 01/01/2019. Ông U trình bày, theo hợp đồng thuê đất thì ông L không thực hiện được việc giao đất đúng thời hạn quy định, nên đã trả lại tiền cọc 50 triệu đồng và bồi thường cho ông 50 triệu đồng. Việc ông T ngăn cản làm hàng rào bao chiếm phần đất mặt tiền, xâm phạm đến quyền về tài sản của ông L, thiệt hại thực tế đã xảy ra nên phải có trách nhiệm bồi thường theo yêu cầu của ông L là phù hợp quy định của pháp luật, nên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông T kháng cáo xin miễn tiền án phí. Xét thấy ông T 61 tuổi xin miễn tiền án phí là phù hợp quy định nên chấp nhận và sửa án sơ thẩm.
[6] Xét đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn là có cơ sở nên chấp nhận.
Xét đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn là không có cơ sở nên không chấp nhận.
[7] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát Tỉnh: Nội dung kháng nghị nhận định, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành bản án và trong phần nhận định của bản án buộc ông T bồi thường cho ông L 50 triệu đồng là phù hợp, nhưng tại phần quyết định của bản án thì không có xem xét giải quyết hết yêu cầu của ông L là giải quyết chưa toàn diện vụ án, nên đề nghị sửa án sơ thẩm phần này.
Thực tế, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án có đọc phần quyết định buộc ông T bồi thường 50 triệu đồng. Việc này được thể hiện trong quyết định của bản án có nêu phần lãi chậm thi hành án đối với số tiền bồi thường 50 triệu đồng và buộc ông T chịu tiền án phí phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho ông L. Đồng thời, ngày 19/6/2020, ông T kháng cáo không đồng ý bồi thường thiệt hại 50 triệu đồng, đến ngày 02/7/2020 có quyết định sửa chữa, bổ sung bản án. Vì vậy, không có cơ sở để chấp nhận kháng nghị.
Đối với kháng cáo về án phí dân sự sơ thẩm: Đề nghị chấp nhận việc xin miễn tiền án phí của ông T là có cơ sở nên chấp nhận.
Do đó, không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát Tỉnh. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông T. Sửa một phần bản án sơ thẩm về án phí. Các phần khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 148, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 100, 166, 203 của Luật đất đai 2013; Điều 584, 589 của Bộ luật dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 20/QĐKNPT-VKS-DS ngày 03/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Ký Văn T.
Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm.
3. Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Anh L.
Buộc ông Ký Văn T phải tháo dở di dời hàng rào lưới B40; di dời cây trồng trên diện tích đất tranh chấp để trả lại diện tích đo đạc thực tế là 84,8m2 gồm các mốc M2-MC-M3-M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L (trong đó diện tích 9,7m2 thuộc một phần thửa đất số 2, tờ bản đồ số 24 và diện tích 75,1m2 thuộc một phần thửa số 3, tờ bản đồ số 24, do ông Nguyễn Anh L đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 12/6/2018) cho ông Nguyễn Anh L được quyền sử dụng (kèm Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L).
Buộc ông Ký Văn T phải bồi thường cho ông Nguyễn Anh L số tiền 50.000.000đ.
Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của ông Nguyễn Anh L cho đến khi thi hành xong, ông Ký Văn T còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Ký Văn T về việc yêu cầu Sở T tỉnh Đồng Tháp thu hồi 84,8m2 đất gồm các mốc M2-MC-M3-M4-MD-MA về M2 thể hiện trên Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp ngày 07/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L để công nhận cho ông T được quyền sử dụng.
4. Về án phí:
Ông Ký Văn T được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm và không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Ký Văn T tiền tạm ứng án phí số tiền là 600.000đ theo biên lai số 0001912 ngày 11/12/2019 và biên lai số 0005099 ngày 13/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Anh L số tiền tạm ứng án phí là 1.550.000đ theo biên lai số 0008620 ngày 03/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
5. Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Ký Văn T phải nộp 6.786.000đ để hoàn trả cho ông Nguyễn Anh L.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại số 66/2021/DS-PT
Số hiệu: | 66/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về