Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và ngõ đi chung số 31/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 31/2023/DS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ NGÕ ĐI CHUNG

Ngày 31/8/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B; xét xử sơ thẩm công khai vụ thụ lý số: 21/2022/TLST-DS ngày 14/11/2022, về việc ''Tranh chấp kiện đòi tài sản (quyền sử dụng đất) và tranh chấp quyền sử dụng đất (ngõ đi chung)'', theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2023/QĐXX-ST ngày 12/5/2023, Theo Quyết định hoãn phiên toà số 33/2023/QĐST-DS ngày 20/7/2023 và Quyết định tạm ngưng phiên toà số 15/2023/QĐST-DS ngày 15/8/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1983 (Có mặt);

Địa chỉ: Số 5 ngách 241/24 ngõ 241, thôn Phù Đổng 2, xã Phù Đổng, huyện G, Thành phố H.

Bị đơn: Ông Nguyễn Bá T, sinh năm 1952 (Có mặt);

*Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn ông T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ng: Ông Nguyễn Văn V, Luật sư, Công ty Luật TNHH T- Đoàn Luật sư tỉnh B.

Địa chỉ: Số 13, Nguyễn Đăng Đạo, phường Suối Hoa, thành phố B, tỉnh B.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:

1. Anh Nguyễn Công L, sinh năm 1976 và chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980 (Xin vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1978 (Có mặt);

Cùng địa chỉ: Thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T, tỉnh B.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị L2, sinh năm 1983;

2. Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1987;

3. Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1956;

Người đại diện theo uỷ quyền của chị L2, chị T1, bà Ng: Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1978 (Có mặt);

Cùng địa chỉ: Thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện, tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Văn P trình bày:

Anh là chủ sử dụng đất tại thửa đất số 93, tờ bản đồ số 16, diện tích 230,6 m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 198883, Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày 22/4/2021 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Nguyễn Bá P chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh là Nguyễn Văn P theo hồ sơ số 003.06.11.H05-220404-0085 được Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện T xác nhận ngày 07/04/2022).

Quá trình sử dụng đất, ông Nguyễn Bá T là hộ liền kề đã sử dụng một phần diện tích đất khoảng 30 m2 tại thửa đất phần đất phía Tây Nam của anh. Trên phần đất nêu trên 1 phần ông T dựng cột sắt, lợp lán tôn, xây tường và sử dụng làm sân. Ngoài ra trên phần đất ngõ đi chung vào thửa đất của anh ông T làm cổng sắt mái tôn, bịt không cho anh đi vào thửa đất. Anh đã có ý kiến với ông T và hai bên tự hòa giải nhưng ông T không hợp tác, không đồng ý. Năm 2022 anh nhận chuyển nhượng thửa đất của ông Nguyễn Bá P đã có đường đi, ngõ đi chung đổ bê tông như hiện nay, ông Nguyễn Bá P có nói với anh là trước đó có phần đóng góp của ông, sau này anh được sử dụng cùng và là ngõ đi chung.

Anh làm đơn này yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc ông Nguyễn Bá T tháo dỡ cột, khung sắt, lán tôn, tường đã xây và chấm dứt việc sử dụng sân, trả lại anh diện tích đất 39,9 m2 sau khi có kết quả đo đạc đất tại thửa số 93, tờ bản đồ số 16, xã Cảnh Hưng mang tên anh mà gia đình ông T đang sử dụng;

Xác định ngõ đi vào thửa đất 93 là ngõ đi chung. Buộc gia đình ông T phải dỡ bỏ cổng sắt, trả lại lối đi chung để anh được đi vào thửa đất. Trong quá trình chờ Toà án xét xử gia đình ông T cố tình xây dựng các công trình trên phần đất của anh, anh đã trình báo chính quyền địa phương đình chỉ xây dựng, gia đình ông cố tình xây dựng sau này anh không chịu trách nhiệm, buộc gia đình ông phải tự phá dỡ.

Ngoài ra anh không có ý kiến yêu cầu gì thêm.

Bị đơn ông Nguyễn Bá T trình bày:

Ông là chủ sử dụng thửa đất số 91, tờ bản đồ 16, diện tích 311 m2, tại thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T, tỉnh B, đã được UBND huyện Tiên Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998 mang tên hộ ông T và bà Ng, nguồn gốc thửa đất trên được tách ra từ thửa to diện tích 779 m2 là của cụ Nguyễn Bá T, sinh năm 1922 cho vợ chồng ông. Diện tích thửa đất còn lại là thửa số 08, tờ bản đồ 04, diện tích 468 m2 mang tên hộ ông Nguyễn Bá T được UBND huyện Tiên Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998.

Mẹ ông cụ Nguyễn Thị Th1ỷ, sinh năm 1926, mất năm 1989; chết không để lại di chúc, cụ T mất năm 2004, chết có để lại di chúc. Sau này ông mới được biết có di chúc, có 01 người làm chứng là ông Nguyễn Bá Lợi, sinh năm 1930, là người cùng thôn (đội 2, thôn Trung), có quan hệ là em trong họ, di chúc không được chứng thực thì cụ T bị tai nạn giao thông mất. Trong di chúc cụ T dặn thửa đất 468 m2 cho em là Nguyễn Bá P nhưng không được bán, chuyển nhượng mà để làm nhà thờ.

Gia đình ông có 10 anh chị em, ngày 06 tháng 01 năm 2011 các ông có làm văn bản cam kết nội dung: Giao tài sản là thửa đất số 08 cho ông (T) có trách nhiệm trông nom, quản lý giữ gìn, nếu có thay đổi phải được sự nhất trí của anh em. Tại bản cam kết không có mặt của Nguyễn Bá P do ông P làm ăn trong Thành phố Buôn Ma Th1ột- tỉnh Đắc Lắk, còn lại 09 anh em có mặt.

Năm 2017 gia đình ông có văn bản phân chia di sản thừa kế có đầy đủ 09 anh em, còn lại do ông Nguyễn Bá Tân, sinh năm 1956 đã chết nên đã có mặt của vợ là Lê Thị V, 1960 và các con là Nguyễn Bá L1, 1983 và Nguyễn Thị L1, 1984 giao cho Nguyễn Bá P thửa đất 08 nêu trên, văn bản trên được công chứng đầy đủ theo quy định.

Sau đó ông P đã đi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên riêng. Ông P tách thửa đất 08 thành 3 thửa, 1 phần cho em gái chị Nguyễn Thị Dung sử dụng, 1 phần bán cho anh Nguyễn Sỹ Th, quê Thanh Hoá; 1 phần giáp nhà ông thì bán cho Nguyễn Văn P, sinh năm 1983, ở G, H. Tổng diện tích 3 thửa là 490 m2, ông thấy tăng lên 22 m2 so với diện tích ông T được cấp năm 1998 là 468 m2.

Quá trình sử dụng sau khi được phân chia thì ông Nguyễn Bá P có xây dựng tường bao bằng gạch cao hơn 1 m để ngăn cách giữa 2 thửa đất hiện nay vẫn còn móng. Thửa đất số 91 của ông từ trước sử dụng đến đâu ông vẫn sử dụng đến đó, trên phần đất đó ông chỉ dựng mái tôn được khoảng mấy chục năm.

Do thửa đất 08 của cụ T cao hơn so với đường vào nên năm 2008 ông phải xây dựng tường dài khoảng 12 m, cao hơn 1 m, để chắn không cho đất cát đổ ra ngõ. Ông xây dựng trên phần đất ngõ đi. Để đi vào thửa đất số 91 chỉ có lối đi vào hiện nay, trước kia là ao, năm 1976 ông thuê người tân ao để làm con đường đi vào thửa đất. Ngõ đi trên có gia đình ông và gia đình ông Nguyễn Công Th (Đã chết), sau này là anh Nguyễn Công L, sinh năm 1975 sử dụng, gia đình ông cho gia đình ông Th đi nhờ. Khoảng năm 2010 gia đình ông và gia đình nhà anh L tự đổ bê tông và làm cống thoát nước cho ngõ đi được sạch mỗi gia đình bỏ ra hơn 10.000.000 đồng. Trên ngõ đi thì ông có dựng cửa tôn để chắn bảo vệ xe ô tô cho con ông.

Nay anh Nguyễn Văn P khởi kiện đòi tài sản vì cho rằng gia đình ông sử dụng 1 phần đất phía nam của anh P, tuy nhiên ông khẳng định từ trước ông sử dụng đến đâu nay ông vẫn sử dụng đến đó nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh P.

Ngoài ra ngõ đi đang tranh chấp là ngõ đi do ông tân tạo, không phải ngõ đi chung, nên quan điểm của ông là không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Văn P. Tại phiên toà ông đồng ý ngõ đi tranh chấp là ngõ đi chung, tuy nhiên ông có công sức tôn tạo, đổ bên tông…anh P muốn đi cùng phải trả cho gia đình ông công sức, cũng như tiền do con trai ông là anh T1 bỏ ra làm đường, cống.

Ngoài ra ông đề nghị Toà án xem xét: Ông không đồng ý việc anh Nguyễn Bá P bán đất cho anh Nguyễn Văn P vì không theo di chúc và nguyện vọng của bố, không theo thoả thuận của các anh em gia đình ông.

Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử ông có đơn phản tố đề nghị như sau:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (bác yêu cầu của nguyên đơn).

Về đất đang tranh chấp hơn 30 m2 theo nguyên đơn yêu cầu. Ông đề nghị Tòa án áp dụng quan hệ pháp luật đề giải quyết vụ án này là tranh chấp quyền sử dụng đất (đất đang tranh chấp) và tranh chấp ngõ đi chung.

Ông đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn anh Nguyễn Văn P.

Yêu cầu nguyên đơn trả chi phí sau:

Ngõ đi chung: Ngõ đi này chủ yếu do nhà ông tân tạo nên, giờ có 4 nhà đi chung tính cả nhà ông vậy lấy tổng chi phí chia cho 4 nhà, anh P đi chung nên phải trả ông chi phí.

Tiền tân đất 273.600.000 đồng/4 nhà+tiền bê tông 20.000.000đồng+tiền cống 10.000.000đồng=98.400.000đồng (Chín mươi tám triệu bốn trăm ngàn đồng).

Tường rào ông xây từ năm 2008 dài 15 m, cao 2 m, không xây trên đất của nguyên đơn. Chi phí hết 12.000.000 đồng (như giấy xác nhận anh Nguyễn Bá Tài kèm theo đơn phản tố này);

Cổng tôn hết chi phi 6.700.000đồng. Tổng chi phí nguyên đơn phải trả là:

98.400.000đồng+12.000.000đồng+6.700.000đồng=117.100.000đồng (Một trăm mười bảy triệu một trăm nghìn đồng).

Ông đề nghị đưa Người có quyền lợi liên quan ông Nguyễn Bá P và UBND xã Cảnh Hưng, UBND huyện T vào tham gia tố tụng.

Ông đề nghị Tòa án thu thập hồ sơ các lần cấp đất và bản đồ địa chính các thời kỳ, cấp đất lần đầu cho bố ông ông Nguyễn Bá T, hồ sơ cấp sang tên cho em trai ông Nguyễn Bá P, sinh 1963.

Ông yêu cầu đo đạc lại phần diện tích của cả diện tích nhà ông và cả diện tích đất của ông Nguyễn Bá P nhận thừa kế của bố ông có diện tích là 468 m2 có sự chứng kiến của gia đình ông và yêu cầu đơn vị đo độc lập.

Ngoài ra ông không có ý kiến yêu cầu gì khác.

*Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông T và người liên quan là bà Ng là ông Nguyễn Văn V trình bày: Ông Nhất trí với ý kiến của ông T. Ông đề nghị đưa ông Nguyễn Bá P, đại diện UBND xã Cảnh Hưng, UBND huyện T vào tham gia tố tụng, đề nghị công nhận di chúc, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chấp cho ông Nguyễn Bá P và ông Nguyễn Văn P.

Ngoài ra ông không có ý kiến yêu cầu gì khác.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập anh Nguyễn Công L, chị Nguyễn Thị H trình bày:

Năm 2016 do ngõ đi bẩn nên gia đình anh, chị và gia đình ông T chung nhau đổ bê tông như hiện nay gia đình anh phải bỏ ra số tiền 15.000.000 đồng phần từ đầu ngõ đến phần mái che ông T đang lợp mái tôn. Nay các gia đình tranh chấp ngõ đi trường hợp yêu cầu của anh P không được chấp nhận thì đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật, còn trường hợp được chấp nhận thì vợ chồng anh yêu cầu anh P phải trích trả cho vợ chồng anh số tiền 20.000.000 đồng. Ngoài ra để làm được con đường như hiện nay năm 1997 và năm 2001 gia đình anh có tân tạo ngõ đi từ cổng nhà anh ra đường bê tông lớn của làng, còn gia đình ông T đổ từ cổng nhà anh chị vào nhà ông T. Nay vợ chồng anh đề nghị nếu được đi chung thì anh P phải trả số tiền 30.000.000 đồng. Tổng số tiền vợ chồng anh P phải trả số tiền là 50.000.000 đồng. Quá trình chờ xét xử anh L, chị H có đơn xin rút yêu cầu độc lập. Anh chị xin vắng mặt tại các phiên toà.

Ngoài ra anh, chị không có ý kiến yêu cầu gì thêm.

Những người có có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:

Bà Ng trình bày: Bà là vợ ông Nguyễn Bá T, bà nhất trí với ý kiến của ông T. Ngoài ra bà không có ý kiến yêu cầu gì khác.

Anh T1 trình bày:

Bố mẹ anh (ông T và Ng) là chủ sử dụng thửa đất số 91, tờ bản đồ 16, diện tích 311 m2, tại thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T, tỉnh B, đã được UBND huyện Tiên Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998 mang tên hộ ông T và bà Ng nguồn gốc thửa đất trên là của cụ Nguyễn Bá T, sinh năm 1922 cho bố mẹ anh. Hộ gia đình anh năm 1998 có 5 thành viên gồm: Bố mẹ anh, chị Nguyễn Thị L2, Nguyễn Thị T1 và anh. Nguồn gốc thửa đất trên được tách ra từ thửa to 779 m2 của cụ T. Diện tích thửa đất còn lại là thửa số 08 tờ bản đồ 04, diện tích 468 m2 mang tên hộ cụ Nguyễn Bá T được UBND huyện Tiên Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998.

Bà nội anh cụ Nguyễn Thị Th1ỷ, sinh năm 1926 mất năm 1989 chết không để lại di chúc, ông nội anh là cụ T mất năm 2004, chết có để lại di chúc, sau này anh mới được biết di chúc, di chúc có người làm chứng là ông Nguyễn Bá Lợi, sinh năm 1930, là người cùng thôn (đội 2, thôn Trung), có quan hệ là em trong họ, di chúc không được chứng thực, thì cụ T bị tai nạn giao thông mất. Trong di chúc cụ T dặn thửa đất 468 m2 cho ông là Nguyễn Bá P nhưng không được bán, chuyển nhượng mà để làm nhà thờ.

Gia đình bố anh có 10 anh chị em, anh được biết ngày 06 tháng 01 năm 2011 thì gia đình bố anh có làm văn bản cam kết nội dung: Giao tài sản là thửa đất số 08 cho bố anh (T) có trách nhiệm trông nom, quản lý giữ gìn, nếu có thay đổi phải được sự nhất trí của anh em. Tại bản cam kết không có mặt của ông Nguyễn Bá P do chú P làm ăn trong TP. Buôn Ma Th1ột, tỉnh Đắc Lắc, còn lại 09 anh em có mặt.

Năm 2017 gia đình bố anh có văn bản phân chia di sản thừa kế có đầy đủ 09 anh em, còn lại do ông Nguyễn Bá Tân, sinh năm 1956 đã chết nên đã có mặt của vợ là Lê Thị V, 1960 và các con là Nguyễn Bá L1, 1983 và Nguyễn Thị L1, 1984 giao cho Nguyễn Bá P thửa đất 08 nêu trên, văn bản trên được công chứng đầy đủ theo quy định. Lý do gia đình bố anh và các bác, các chú đồng ý là do gia đình ông Nguyễn Bá P làm ăn thua lỗ nên gia đình đồng ý cho bán. Cả gia đình chuyển tên cả thửa đất tuy nhiên có thoả thuận ngoài bằng miệng là chỉ cho bán 1 phần, 1 phần còn lại không bán để sau này ông P về dưỡng già.

Sau đó ông P đã đi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên riêng. Ông P tách thửa đất 08 thành 3 thửa, 1 phần cho em gái chị Nguyễn Thị Dung ở, 1 phần bán cho anh Nguyễn Sỹ Th, quê Thanh Hoá; 1 phần giáp nhà anh thì bán cho Nguyễn Văn P, sinh năm 1983, ở G, H.

Quá trình sử dụng sau khi được phân chia thì ông Nguyễn Bá P có xây dựng tường bao bằng gạch cao hơn 1 m để ngăn cách giữa 2 thửa đất hiện nay vẫn còn móng. Thửa đất số 91 của gia đình anh từ trước sử dụng đến đâu anh vẫn sử dụng đến đó, trên phần đất đó bố anh chỉ dựng mái tôn được khoảng mấy chục năm, bố mẹ anh làm từ khoảng năm 2011-2012.

Do thửa đất 08 của cụ T cao hơn so với đường vào nên năm 2008 bố anh phải xây dựng tường dài khoảng 12 m, cao hơn 1 m, để chắn không cho đất cát đổ ra ngõ, đến nay tường vẫn nguyên, chỉ cũ và các thanh hoa bê tông bị đổ nên xây dựng lại năm 2020 trước khi anh Nguyễn Văn P mua của chú Nguyễn Bá P. Còn cổng sắt gia đình anh làm năm 2020 để che chắn và làm chỗ để ô tô, việc này do ông T thuê làm, anh không rõ.

Để đi vào thửa đất số 91 chỉ có lối đi vào hiện nay, trước kia là bố anh bảo là ao. Bố anh thuê người đổ đất anh không biết do chưa sinh còn nhỏ. Khoảng năm 2010-2011 thì nhà anh (anh), anh L cùng bỏ tiền ra để đổ bê tông và làm cống thoát nước từ cổng sắt đi ra đường lớn còn từ cổng sắt vào gia đình anh là gia đình anh tự đổ. Anh là người làm xây dựng nên đã thuê máy móc thiết bị làm.

Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất của anh P với gia đình anh: Quan điểm anh thấy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất so với thực tế gia đình sử dụng từ trước không đúng.

Nay anh Nguyễn Văn P khởi kiện đòi tài sản và tranh chấp ngõ đi chung với gia đình anh vì cho rằng gia đình anh sử dụng 1 phần đất phía nam của anh P, tuy nhiên anh khẳng định từ trước anh sử dụng đến đâu nay anh vẫn sử dụng đến đó nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh P.

Ngoài ra trong vụ án này tranh chấp ngõ đi chung quan điểm của anh: anh đồng ý là ngõ đi chung nhưng yêu cầu Toà án buộc anh Nguyễn Văn P phải trả cho anh 50.000.000 đồng các tài sản sau đây: Tường bao anh xây dựng năm 2008 số tiền là 12.000.000 đồng, đường đổ bê tông 20.000.000 đồng, cống, hố ga 18.000.000 đồng. Ngoài ra anh không yêu cầu tài tài sản nào khác. Các chứng cứ anh không còn lưu giữ, nhưng đúng là sự thật.

gì.

Anh với tư cách là người đại diện của bà Ng: Anh không có ý kiến yêu cầu Chị L2 trình bày:

Chị là con của ông Nguyễn Bá T và bà Nguyễn Thị Ng. Năm 1998 gia đình chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thử đất số 91, tờ bản đồ 16, diện tích 311 m2 tại thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T, tỉnh B, mang tên hộ ông Nguyễn Bá T và bà Nguyễn Thị Ng. Năm 1998 chị là một trong năm thành viên trong hộ gia đình. Chị đã được thông báo nội dung vụ án tranh chấp và được Tòa án giải thích quyền và nghĩa vụ.

Trên phần đất tranh chấp chị không có tài sản gì, không có đóng góp gì, hoàn toàn là tài sản của bố mẹ chị và anh T1. Trên phần ngõ đi tranh chấp chị không có đóng góp công sức gì. Về quan điểm giải quyết vụ án chị nhất trí với ý kiên của bố mẹ chị và anh T1.

Chị không có ý kiến gì và yêu cầu gì. Chị xin vắng mặt tại các buổi làm việc và các phiên tòa.

Chị T1 trình bày:

Chị là con của ông Nguyễn Bá T và bà Nguyễn Thị Ng. Năm 1998 gia đình chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thử đất số 91, tờ bản đồ 16, diện tích 311 m2 tại thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T, tỉnh B, mang tên hộ ông Nguyễn Bá T và bà Nguyễn Thị Ng. Năm 1998, chị là một trong năm thành viên trong hộ gia đình. Chị đã được thông báo nội dung vụ án tranh chấp và được Tòa án giải thích quyền và nghĩa vụ.

Trên phần đất tranh chấp chị không có tài sản gì, không có đóng góp gì, hoàn toàn là tài sản của bố mẹ chị và anh T1. Trên phần ngõ đi tranh chấp chị không có đóng góp công sức gì. Về quan điểm giải quyết vụ án chị nhất trí với ý kiên của bố mẹ chị và anh T1.

Chị không có ý kiến gì và yêu cầu gì. Chị xin vắng mặt tại các buổi làm việc và các phiên tòa.

* Với tư cách là người đại diện theo uỷ quyền của chị L2, chị T1: Anh T1 giữ nguyên lời trình bày của các chị không bổ sung gì.

Ngoài ra không ai có ý kiến yêu cầu gì khác.

*Xác minh tại UBND xã Cảnh Hưng, cán bộ địa chính cung cấp:

Thửa đất của ông Nguyễn Bá P là số 93, tờ bản đồ 16, diện tích 230,6 m2 đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2021 cho ông Nguyễn Bá P, sinh năm 1963. Năm 2022 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1963.

Nguồn gốc thửa đất trên là 1 phần của thửa đất mang tên cụ Nguyễn Bá T (bố đẻ của ông Nguyễn Bá P), sau khi ông T chết, gia đình có văn bản thống nhất để cho ông Nguyễn Bá P đứng tên. Sau khi nhận thừa kế, ông Nguyễn Bá P có tách thửa đất thành 3 thửa (93, 94, 95), tờ bản đồ số 16. Thửa đất số 93 sau đó được chuyển nhượng cho anh Nguyễn Văn P.

Còn đối với thửa đất số 91, tờ bản đồ số 16, diện tích 311 m2 tại thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T giáp với thửa đất của ông Nguyễn Văn P (thửa đất số 93), đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Nguyễn Bá P và bà Nguyễn Thị Ng. Hiện trạng tranh chấp có 01 gian bếp của ông T nằm trên thửa đất của ông Nguyễn Bá P trước đây và ông Nguyễn Văn P hiện nay, gian bếp này có từ trước khi ông Nguyễn Bá P được thừa kế.

Ngoài ra ông T còn xây dựng 01 đoạn tường trước cạnh phía Đông của thửa đất số 93 của ông Nguyễn Văn P hiện nay (Chiều dài khoảng 12 m), tường xây cao 2 m, bằng gạch sau thời điểm ông Nguyễn Bá P chuyển nhượng cho anh Nguyễn Văn P.

Ngõ đi chung vào nhà ông T, ông P, ông Th, bà Th1 theo như bản đồ năm 1998 và theo bản đồ năm 2021 đã được phê duyệt thì đều là ngõ đi chung.

Hiện nay ông T có xây dựng hai trụ cổng và lắp 1 cổng sắt cản trở việc đi lại của các hộ xung quanh. Có anh Nguyễn Văn P làm đơn đề nghị UBND xã can thiệp buộc ông T phải trả ngõ đi của tập thể, UBND đã tiến hành lập biên bản và yêu cầu hộ ông T phải tháo dỡ cổng và trụ cổng trả lại ngõ đi chung cho tập thể nhưng gia đình ông T vẫn cố tình không tháo dỡ cổng để trả lại ngõ đi chung.

Đoạn tường chắn trước thửa đất nhà anh Văn P, ông T xây dựng trên đất ngõ tập thể cản trở việc sử dụng đất của anh Văn P.

Ngõ đi chung giữa các gia đình ông Nguyễn Công Th (ông Th đã chết con trai là Nguyễn Công L quản lý, sử dụng), gia đình ông Nguyễn Bá T, gia đình ông Nguyễn Bá T (đã chết) do gia đình ông L, ông T tự góp tiền tân tạo và đổ bê tông để được hiện trạng như hiện nay. Do đây là ngõ đi chung của ít các hộ gia đình nên UBND xã Cảnh Hưng chỉ đổ bê tông đến các ngõ lớn, không đổ đến các ngõ nhỏ và không đổ bê tông đến nhà ông T, ông Th.

Thửa đất số 32, tờ bản đồ 04, diện tích 201 m2 trước kia là của ông Nguyễn Công K, sau đó bán cho bà Nguyễn Thị S (đã chết) và ông Nguyễn Đắc Th (đã chết), nay con gái là chị Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1988; ở thôn Trung, xã Cảnh Hưng, đang quản lý sử dụng. Ngoài ra nhà bà S và ông Th còn có 01 thửa đất số 29, tờ bản đồ 04, diện tích 424 m2, trên đất có 01 ngôi nhà. Tuy nhiên khi làm nhà chị Th1 quay lưng vào ngõ đi chung giữa các nhà anh L, chị H, ông T đang đi, gia đình chị Th1 không đi bằng ngõ đi này.

Ngoài ra ông không cung cấp gì thêm.

*Ông Nguyễn Bá P gửi bản tự khai trình bày:

Nay ông làm bản tự khai trình bày nội dung vụ việc và có đề nghị như sau: Ông là chủ sử dụng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số: 93, tờ bản đồ số 16, diện tích 230,6 m2, tại thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T, tỉnh B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 198883, vào sổ cấp giấy chứng nhận QSD đất số CS 00480 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/4/2021 mang tên ông Nguyễn Bá P. Trên đất có nhà ngói cấp 4, đổ trần hiên, thửa đất có ngõ đi công ra đường giao thông trục chính của thôn, xã. Do không có nhu cầu sử dụng nên ông có chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà nêu trên cho anh Nguyễn Văn P ở xã Phù Đổng, huyện G, thành phố H. Việc chuyển nhượng có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/4/2022, tại Văn phòng công chứng Bắc Hà, tỉnh B, địa chỉ tại số 188 Lý Thường Kiệt, thị trấn Lim, huyện T, tỉnh B. Ông và anh Nguyễn Văn P đã thực hiện các thủ tục theo quy định pháp luật và sang tên sổ cho anh Nguyễn Văn P có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền là Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T, tỉnh B. Đối với việc sử dụng ngõ đi chung: Do trước đây ông Nguyễn Công Th và ông Nguyễn Bá T đều có lối đi vào trong xóm, sau này cùng đi vào ngõ như hiện tại. Tuy nhiên, để tránh mọi sự mâu thuẫn, gây khó khăn cho sử dụng, nên năm 2020, ông, ông Nguyễn Công Th, ông Nguyễn Bá T đã lập thành 02 bản “giấy xác nhận” cam kết có đầy đủ chữ ký của 03 người là ông Th, ông T và Ông (hiện nay ông vẫn giữ bản gốc). Bản thứ nhất lập ngày 22/6/2020, ông xin trích nguyên văn nội dung: “Chúng tôi cùng nhau thống nhất đoạn đường đi từ nhà ông Nguyễn Bá T ra trục đường của thôn là con đường sử dụng chung của các gia đình” “...Nếu có gì sai tôi hoàn chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Bản thứ hai lập ngày 26/6/2020 có nội dung “Do điều kiện tôi đi công tác xa, nay tôi không ở nhà, vì vậy tôi có nhu cầu bán. Để cho việc thuận tiện sau này về con đường trước cửa nhà ông, điểm đầu từ nhà ông Nguyễn Bá Huấn về điểm cuối là ông Nguyễn Bá T. Chúng tôi cùng nhau thống nhất xác định đó là con đường dân sinh được sử dụng chung của chúng tôi. Vậy chúng tôi làm đơn này xin cam đoan là sự thật”. Bản cam kết này ông Nguyễn Công Th còn viết thêm nội dung trước khi ký kết là “Các GĐ: Ông Nguyễn bá T cùng ông Nguyễn Công Th, đây là đường 2 nhà ông từ cha ông cụ kỵ nay cho ông T cùng đi nhưng không được làm cản trở” và 03 người gồm Ông, ông Th và ông T cùng ký ghi rõ họ tên. Việc tôn tạo ngõ đi chung từ trước đến nay đều do bố, mẹ và anh chị em gia đình ông trong đó có ông và gia đình ông Nguyễn Công Th cùng nhau tôn tạo. Và khi thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới thì thôn, xã, huyện đầu tư kinh phí đổ bê tông như hiện nay, không phải của bất cứ gia đình, cá nhân nào phải bỏ tiền ra (ông có cả ảnh chụp khi làm đường). Việc sử dụng chung để đi đã có sự cam kết, ký kết đầy đủ, không ai có quyền ngăn cấm việc đi chung. Mọi nghĩa vụ tôn tạo từ trước tới nay ông và các hộ đã thực hiện đầy đủ, vậy mọi người đều có quyền đi chung và không ai phải thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào khác đối với con đường. Đến nay sự việc quá rõ ràng, có các văn bản đầy đủ để chứng minh mà ông đã cung cấp cho người nhận. Nay ông viết bản tự khai này mong Tòa án nhanh chóng giải quyết.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của các đương sự là đúng pháp luật.

Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ các điều 26, 35, 39, 147, 217 BLTTDS 2015. Điều 166, 175, 176 BLDS 2015. Điều 97, 100, 166, 203 Luật đất đai 2013. Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông T phải trả lại phần diện tích đất lấn chiếm là 39,9 m2 và tháo dỡ các công trình trên đất để trả lại diện tích ngõ đi và diện tích đất lấn chiếm.

- Đình chỉ đối với yêu cầu độc lập của anh L buộc anh P phải trả số tiền 50.000.000đ là công sức làm ngõ đi.

- Không chấp nhận yêu cầu của anh T1 về việc buộc anh P phải trả số tiền 50.000.000 đồng.

- Các đương sự phải chịu án phí DSST theo quy định.

- Bị đơn ông T phải chịu chi phí thẩm định và định giá tài sản theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp:

- Về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn P yêu cầu Tòa án:

Buộc ông Nguyễn Bá T tháo dỡ cột sắt, lán tôn, tường đã xây và chấm dứt việc sử dụng sân, trả lại anh diện tích đất 39,9 m2 sau khi có kết quả đo đạc đất tại thửa số 93, tờ bản đồ số 16, xã Cảnh Hưng mang tên anh mà gia đình ông T đang sử dụng là phần đất từ cổng ngõ nhà ông T hướng vào trong thửa đất số 91;

Xác định ngõ đi vào thửa đất của anh (đoạn có 3 gia đình sử dụng ông T, anh L, chị H, anh) là ngõ đi chung. Buộc gia đình ông T phải dỡ bỏ cổng sắt, trả lại lối đi chung để anh vào thửa đất.

Bị đơn là ông Nguyễn Bá T có yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho Nguyễn Văn P.

Người có quyền lợi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Anh L, chị H yêu cầu: anh P phải trích trả số tiền tân tạo ngõ đi, đổ bê tông là 50.000.000 đồng.

Sau khi thực hiện yêu cầu xác minh của VKS và tại phiên toà đề nghị Toà án đưa thêm những người tham gia tố tụng, trong đó anh T1 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập buộc anh Nguyễn Văn P phải trả cho anh số tiền 50.000.000 đồng các tài sản tường bao, đổ bê tông, cống, hố ga.

Các đương sự có đơn yêu cầu và nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định.

Bị đơn ông T đang cư trú tại thôn Trung, xã Cảnh Hưng, huyện T; tài sản tranh chấp toạ lạc trên địa bàn huyện T; Toà án xác định đây là vụ án dân sự có quan hệ tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh chấp ngõ đi chung, do đó căn cứ Điều 26, 35, 39 BLTTDS; Toà án nhân dân huyện T đã thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.

Trong quá trình tạm ngừng phiên toà anh L, chị H có đơn xin rút yêu cầu độc lập. Anh chị rút đơn là hoàn toàn tự nguyện, đúng theo quy định nên HĐXX chấp nhận việc rút yêu cầu của anh chị. Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 217 BLTTDS; HĐXX quyết định đình chỉ yêu cầu khởi kiện trên của anh L, chị H.

Đối với các yêu cầu trong đơn phản tố của ông T nộp sau khi Toà án có quyết định xét xử, HĐXX xét thấy ông T đã được thông báo hợp lệ không có mặt, không có ý kiến gì về các nội dung trên đến thời điểm phiên họp công khai chứng cứ và hoà giải, sau khi HĐXX đã ra QĐXX và hoãn phiên toà lần 1 ông T mới có đơn phản tố nên HĐXX không chấp nhận đơn phản tố của ông T. Riêng yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Bá P và anh Nguyễn Văn P mặc dù không thụ lý nhưng HĐXX sẽ xem xét theo quy định. Tại phiên toà ông T vẫn giữ nguyên ý kiến trong đơn phản tố:

Đối với ý kiến đưa thêm UBND xã Cảnh Hưng, UBND huyện T và ông Nguyễn Bá P vào tham gia tố tụng: HĐXX xét thấy ông Nguyễn Bá P và đại diện UBND xã Cảnh Hưng, UBND huyện T không có quyền lợi liên quan gì trong vụ án, mặt khác Toà án đã tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ tại UBND xã, UBND huyện, ông Nguyễn Bá P đã có lời trình bày trong hồ sơ nên không đưa vào tham gia tố tụng. Đối với ý kiến đề nghị thẩm định, định giá lại HĐXX không chấp nhận do tại buổi thẩm định định giá ngày 27/4/2023 HĐ đã làm việc đúng, đầy đủ theo quy định, đại diện gia đình có mặt tuy nhiên không ký biên bản. Tại phiên toà ông T không có ý kiến yêu cầu gì và cung cấp căn cứ đề nghị định giá lại.

- Thủ tục tố tụng: Tại phiên toà anh L, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt; anh chị đã được Toà án triệu tập hợp lệ vì vậy HĐXX xét xử vắng mặt đương sự theo thủ tục chung. Trong vụ án này đại diện UBND huyện và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T có văn bản từ chối tham gia tố tụng.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Anh P là chủ sử dụng thửa đất số 93, tờ bản đồ 16, diện tích 230,6 m2 , được cấp GCNQSDĐ cấp ngày 22/4/2021. Nguồn gốc thửa đất là do anh P nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Bá P ngày 04/4/2023 theo hồ sơ số 003.06.11.H05-220404-0085 được Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện T xác nhận ngày 07/4/2022.

Nguồn gốc thửa đất trên là của cụ Nguyễn Bá T có diện tích 779 m2. Quá trình sử dụng, cụ T đã tách thửa đất trên thành thửa 91, tờ bản đồ 16, diện tích 311 m2, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998 mang tên hộ ông T và bà Ng và thửa số 08, tờ bản đồ 04, diện tích 468 m2 mang tên hộ ông T được UBND Tiên Sơn cấp GCNQSDĐ năm 1998.

Cụ Thủy (là vợ cụ T) mất năm 1989 không để lại di chúc, cụ T mất năm 2004 có để lại di chúc, có người làm chứng là ông Lợi, không được công chứng, chứng thực. Tại bản di chúc, cụ T để lại thửa đất 468 m2 cho ông Nguyễn Bá P nhưng không được bán, chuyển nhượng mà làm nhà thờ. Ngày 06/01/2011, các con của cụ T và cụ Thủy lập văn bản cam kết: Giao tài sản là thửa đất số 08 cho ông Nguyễn Bá T có trách nhiệm trông nom, quản lý, giữ gìn nếu có thay đổi phải được sự nhất trí của anh em. Năm 2017, các con của cụ T và cụ Thủy có văn bản phân chia di sản thừa kế theo đó giao cho ông Nguyễn Bá P thửa đất số 08 nêu trên, văn bản được công chứng theo quy định. Sau đó ông Nguyễn Bá P đi làm GCNQSDĐ với diện tích 490 m2 và tách thửa đất số 08 thành 03 thửa (thửa 93,94,95) tờ bản đồ 16 sau đó chuyển nhượng cho anh Nguyễn Văn P thửa đất số số 93, tờ bản đồ 16, diện tích 230,6 m2.

Theo như trích đo hiện trạng thửa đất, tại cạnh Tây Nam (giáp với nhà ông T) và cạnh phía đông (cạnh giáp phần ngõ đi) của thửa đất hiện trạng sử dụng còn thiếu 13,8 m2, 24,5 m2, 1,6 m2 , tổng diện tích là 39,9 m2 đất so với bản đồ địa chính. Cạnh phía Tây Nam thửa đất của anh P có một phần sử dụng vượt quá so với ranh giới sử dụng đất theo bản đồ địa chính của xã có diện tích là 2,9 m2, hiện trạng là vườn, anh P chưa xây dựng gì, đồng ý trả ông T nên không xem xét. Đồng thời thửa đất của gia đình ông T được cấp Gấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 91, diện tích 311 m2, hiện trạng sử dụng là 385,2 m2. Theo trích đo hiện trạng thửa đất, tại cạnh Đông Bắc của thửa đất của ông T có sử dụng vượt quá 13,8 m2, 24,5 m2 (cạnh giáp nhà ông Văn P) và cạnh Đông giáp ngõ đi 1,6 m2.

Quá trình sử dụng đất, theo anh Văn P xác định gia đình ông T sử dụng sang phần đất được cấp giấy chứng nhận của anh diện tích 39,9 m2 theo như kết quả đo đạc.

HĐXX xét thấy cụ Th1ỷ chết không để lại di chúc, đối với di chúc của cụ T không có công chứng, chứng thực, chỉ có 1 người làm chứng là không đảm bảo theo quy định của BLDS nên trong gia đình ông T họp gia đình theo ý nguyện của cụ T là cho ông Nguyễn Bá P thửa đất số 08, tờ bản đồ 04, diện tích 468 m2 nhưng không được bán, chuyển nhượng cho ai, chỉ được làm nhà thờ. Tuy nhiên tại bản cam kết ngày 06/01/2011 họp gia đình ông T và các anh em có lập văn bản nhưng ông Nguyễn Bá P không có mặt, quyết định giao tài sản cho ông T để trông nom. Sau khi ông Nguyễn Bá P trở về từ Buôn Mê Th1ột thì gia đình họp và thống nhất văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế đầy đủ thành viên gia đình, các con cụ T, cụ Th1ỷ theo quy định, văn bản được công chứng tại Văn Phòng Công chứng Vũ Văn Phúc theo quy định ngày 08/12/2017, nội dung các đồng thừa kế đồng ý tặng kỷ phần của mình cho ông Nguyễn Bá P thửa đất số 08 và không có điều kiện gì. Đến nay các đương sự đều thống nhất thừa nhận. Do đó ông Nguyễn Bá P làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất nêu trên thành thửa đất số 92, tờ bản đồ 16 diện tích 490 m2 không ai có ý kiến gì. Do không có nhu cầu sử dụng nên ông Nguyễn Bá P đã tách thành 3 thửa, trong đó thửa số 93 đã chuyển nhượng cho anh Nguyễn Văn P. Việc chuyển nhượng cho anh Nguyễn Văn P hai bên lập thành văn bản, theo hợp đồng công chứng ngày 04/4/2022, sau đó anh P được Văn phòng đăng ký đất đai huyện T chuyển tên ngày 07/4/2022. Việc anh Nguyễn Văn P nhận chuyển nhượng thửa đất trên là hoàn toàn hợp pháp, đến nay ông Nguyễn Bá P không có ý kiến, yêu cầu gì, đề nghị Toà án giải quyết nhanh chóng cho người mua đất.

Trên diện tích được cấp giấy chứng nhận tên ông Nguyễn Bá P ông T cho rằng có mái lợp tôn, cổng ngõ, tường bao ông xây dựng hai bên đã thống nhất mốc giới theo bức tường ngăn cách giữa hai nhà ở cạnh Nam của gia đình ông Nguyễn Bá P và cạnh Bắc của gia đình ông T. Tuy nhiên: Thực tế theo bản đồ qua các thời kỳ, giấy chứng nhận đã được cấp cho ông T, cụ T từ năm 1998, gia đình ông T được sử dụng đến đâu ông cũng không nắm được. Đến nay ông sử dụng ngoài ranh giới quyền sử dụng được cấp của thửa số 91, sang phần đất của thửa số 93 hiện nay theo đo đạc là 39,9 m2. Mặt khác thời điểm ký tặng cho kỷ phần ông T cũng hoàn toàn tự nguyện không có ý kiến gì.

Từ những phân tích nhận định nêu trên HĐXX xét thấy yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn P về việc ông buộc ông Nguyễn Bá T phải trả cho anh diện tích 39,9 m2 là có căn cứ chấp nhận.

Trên phần đất tranh chấp có các tài sản: Mái lợp tôn, tường bao, cổng ngõ ông T đã làm trước đó tuy nhiên khi anh Nguyễn Văn P mua năm 2022 của ông Nguyễn Bá P hiện trạng đã có như vậy nên anh không có lỗi trong việc này, buộc ông Nguyễn Bá T phải tháo dỡ toàn bộ tài sản trên phần đất tranh chấp trả lại mặt bằng cho anh Nguyễn Văn P.

Đối với phần diện tích 2,9 m2 theo hiện trạng thửa đất của anh P là đất của Nguyễn Bá T, anh P chưa sử dụng, anh đồng ý đó là phần đất của ông T nên anh không có ý kiến yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

Đối với phần đất 2,3 m2 nằm ngoài so với cổng ngõ ông T chắn thửa đất của anh P, so với bản đồ, hồ sơ cấp giấy chứng nhận anh chưa sử dụng hết đất anh P không có ý kiến gì nên HĐXX không xem xét.

*Xét yêu cầu tranh chấp ngõ đi chung: Theo bản đồ qua các thời kỳ 1998, 2003, cũng như hiện nay, hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998, hồ sơ kỹ thuật thửa đất, lời khai của các đương sự, qua xác minh tại UBND xã, lời khai anh T1 có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên toà đều thừa nhận để đi vào thửa đất của cụ T trước đây, cũng như ông T, ông Th, ông K, bà S đi chung, hiện nay con bà S là bà Th1 không đi bằng lối đi này mà đi bằng lối đi khác; đều thể hiện ngõ đi vào thửa đất số 91 và thửa số 93 hiện nay là ngõ đi chung. Các gia đình sử dụng từ trước đến nay không có tranh chấp. Hiện nay anh Nguyễn Văn P mua thửa đất số 93 tuy nhiên ông T đã sử dụng 1 phần ngõ đi chung và có xây dựng 01 cổng sắt làm chắn ngang giữa lối đi này, không cho anh P đi chung để vào sử dụng thửa đất.

Yêu cầu của nguyên đơn anh Nguyễn Văn P là có căn cứ chấp nhận, xác định ngõ đi nêu trên là ngõ đi chung, buộc ông T phải tháo dỡ toàn bộ tài sản trên ngõ đi chung để anh P được có lối đi vào thửa đất.

*Xét yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Bá T1: Anh yêu cầu anh Nguyễn Văn P phải trả cho anh số tiền tổng số 50.000.000 đồng, bao gồm: tường bao anh xây dựng năm 2008 số tiền là 12.000.000 đồng, đường đổ bê tông 20.000.000 đồng, cống, hố ga 18.000.000 đồng. Các tài sản trên được các gia đình ông T, anh L, chị H, (ông Th đã chết), ông Nguyễn Bá P thống nhất đổ bê tông, làm ngõ đi chung, UBND xã và địa phương chỉ đổ đến đầu ngõ, còn ngõ nhỏ, đường nhánh các gia đình tự đổ. Việc đổ bê tông, tân tạo, làm ngõ của các gia đình đã có từ trước khi ông Nguyễn Bá P chuyển nhượng thửa đất cho anh Nguyễn Văn P tháng 4/2022. Do vậy anh P nhận chuyển nhượng đã có ngõ đi này nên không phải trả cho ai bất kỳ khoản tiền nào liên quan đến ngõ đi chung.

Đối với bức tường bao anh T1 khai xây dựng năm 2008 khi đó là tài sản là thửa đất số 08, tờ bản đồ 04 vẫn mang tên cụ T, anh xây dựng trên đất của cụ T. Năm 2017, cả gia đình có văn bản thoả thuận như đã nêu trên tặng cho phần thừa kế của mình cho ông Nguyễn Bá P. Bức tường đã có từ trước khi ông Nguyễn Bá P chuyển nhượng thửa đất cho anh Nguyễn Văn P tháng 4/2022. Do vậy anh P không phải trả cho anh T1 số tiền trên.

Từ những phân tích nhận định nêu trên yêu cầu của anh T1 là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

* Xét yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Bá T: Từ những phân tích nhận định nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của ông T về việc huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyến Bá P, anh Nguyễn Văn P là không có căn cứ chấp nhận.

Tại phiên toà đại diện VKS phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án là đúng và đầy đủ, phù hợp với quy định pháp luật.

[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Văn P được chấp nhận nên không phải chịu án phí DSST. Bị đơn ông Nguyễn Bá T là người cao tuổi theo luật người cao tuổi nên miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho ông. Yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập anh T1 không được chấp nhận nên phải chịu án phí DSST theo quy định. Anh Nguyễn Công L và chị Nguyễn Thị H rút đơn khởi kiện nên trả lại án phí đã nộp cho anh chị.

[4] Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông T phải chịu chi phí thẩm định và định giá tài sản; xác nhận nguyên đơn nguyên đơn đã đã nộp số tiền 15.000.000 đồng tiền chi phí thẩm định và định giá. Ông T phải trả cho anh Nguyễn Văn P số tiền 15.00.000 đồng.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 144, 147, 157, 158, 165, 166, 217, 235, 244, 262, 264, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 107, 166,175, 176, 190, Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015. Căn cứ vào Điều 10, 97, 100, 143, 166, 203 Luật đất đai năm 2013;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Văn P về việc buộc ông Nguyễn Bá T phải trả phần diện tích 39,9 m2 nằm trong thửa đất số 93, tờ bản đồ số 16, diện tích 230,6 m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 198883, Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày 22/4/2021 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Nguyễn Bá P chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh là Nguyễn Văn P theo hồ sơ số 003.06.11.H05- 220404-0085 được Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện T xác nhận ngày 07/04/2022). Buộc ông Nguyễn Bá T phải tháo dỡ toàn bộ tài sản trên phần đất nêu trên.

Và xác nhận phần ngõ đi tranh chấp đất phần đất giáp cạnh phía Đông, Nam của thửa đất 93, là ngõ đi chung. Buộc ông Nguyễn Bá T phải tháo dỡ toàn bộ tài sản trên phần đất là ngõ đi chung nêu trên.

(Có sơ đồ kèm theo) 2. Đình chỉ yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập anh Nguyễn Công L và chị Nguyễn Thị H về việc buộc anh Nguyễn Văn P phải trả số tiền 50.000.000 đồng công sức tân tạo ngõ đi, tiền đổ bê tông.

3. Không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn T1 về việc buộc anh Nguyễn Văn P phải trả số tiền 50.000.000 đồng gồm: 12.000.000 đồng, đường đổ bê tông 20.000.000 đồng, cống, hố ga 18.000.000 đồng.

4. Về án phí: Trả lại cho nguyên đơn anh Nguyễn Văn P, số tiền 675.000 đồng tiền tạm ứng án phí DSST theo biên lai thu số AA/2021/0002373 ngày 23/3/2023 tại Chi cục THADS huyện T. Miễn toàn bộ án phí DSST cho bị đơn ông Nguyễn Bá T. Anh Nguyễn Bá T1 phải chịu 2.500.000 đồng tiền án phí DSST xác nhận anh đã nộp 1.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/0002544 ngày 26/8/2023 tại Chi cục THADS huyện T. Trả lại cho anh Nguyễn Công L và chị Nguyễn Thị H tổng số tiền 1.250.000 đồng theo các biên lai thu số AA/2021/0002482 và AA/2021/0002483 ngày 06/6/2023 tại Chi cục THADS huyện T.

5. Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: Bị đơn ông Nguyễn Bá T phải chịu 15.000.000 đồng tiền chi phí thẩm định và định giá; xác nhận nguyên đơn anh Nguyễn Văn P đã nộp đủ số tiền trên. Ông Nguyễn Bá T phải trả cho anh Nguyễn Văn P số tiền 15.000.000 đồng.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và ngõ đi chung số 31/2023/DS-ST

Số hiệu:31/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về