TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 693/2022/DS-PT NGÀY 27/09/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 346/2022/TLPT-DS ngày 11 tháng 8 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 848/2022/DS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1806/2022/QĐ-PT ngày 31 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Kim H, sinh năm 1970;
Địa chỉ: ấp A1, xã X1, huyện H, Thành phố H “Có mặt”.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1937;
Địa chỉ: ấp A1, xã X1, huyện H, Thành phố H “Vắng mặt”. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Sỹ P, sinh năm 1983;
Địa chỉ: khu phố 1, thị trấn H, huyện H, Thành phố H “Có mặt”.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố H;
Địa chỉ: thị trấn H, huyện H, Thành phố H “Vắng mặt”.
2/ Ông Huỳnh Bá Đ, sinh năm 2001;
Địa chỉ: ấp A1, xã X1, huyện H, Thành phố H “Vắng mặt”.
Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị Kim H là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, các bản tự khai, các buổi làm việc và phiên họp hòa giải nguyên đơn trình bày:
Mẹ bà H là bà Lương Thị M (Mất năm 1982) và cha bà H là ông Huỳnh Văn C mất năm 2005. Cha mẹ ông C và bà M chết trước ông C và bà Bi. Ông C và bà M có hai người con là bà Huỳnh Thị Kim H và ông Huỳnh Công Đ (Ông Đ chết năm 2014). Ông Đ sống chung như vợ chồng với bà Phan Ngọc B (còn có họ tên khác là Lương Thị Ngọc B) từ năm 2000 nhưng không đăng ký kết hôn và có một người con chung là ông Huỳnh Bá Đ.
Năm 1975, cha bà H khai phá được phần đất có diện tích 420m2 thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 12 tại xã X1, huyện H, Thành phố H, sử dụng liên tục và đóng thuế từ năm 1978. Năm 1995, cha bà H kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 ngày 15/4/1996. Năm 1995, bà Nguyễn Thị B có hành vi lấn chiếm một phần diện tích đất và xây tường rào trên đất của cha bà. Bà H đã cung cấp cho Tòa án Thông báo thuế số 3132/TB-PNN ngày 05/11/2012, Thông báo nộp thuế số 0000031070/TB ngày 05/5/2015 và các Biên lai thu thuế của Chi Cục thuế huyện H từ năm 2002 đến 2005, năm 2008, 2012 và 2015 thể hiện ông C và bà H có đóng thuế đất. Nay bà Huỳnh Thị Kim H khởi kiện yêu cầu bà B trả lại cho những người thừa kế của ông C phần đất đã lấn chiếm có diện tích 127,8m2. Tại Bản tự khai ngày 18 tháng 5 năm 2020 và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc bị đơn trả lại cho những người thừa kế của ông C phần đất đã lấn chiếm có diện tích 114,9m2 tại các vị trí số 3b, 4a, 16 theo Bản đồ hiện trạng vị trí áp ranh số hợp đồng 107422/TTĐĐBĐ-CNHM (CS1) ngày 23/11/2021 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H, đối với diện tích đất 12,9m2 tại các vị trí số 17, 18, 20, 21 nguyên đơn không tranh chấp và không yêu cầu giải quyết nữa do phần đất này không nằm trong giấy chứng nhận cấp cho ông C.
Bị đơn bà Nguyễn Thị B có người đại diện theo ủy quyền là ông Hồ Sỹ P tại các bản tự khai, phiên họp hòa giải và phiên tòa trình bày:
Diện tích 327,6m2 thuộc thửa 15, 16, 21, tờ bản đồ số 5 (tài liệu năm 1989) nay thuộc thửa 98 tờ bản đồ số 32 (tài liệu năm 2004) bà B đang sử dụng có nguồn gốc do ông bà ngoại của bà B là ông Lý Văn Còn và bà Trần Thị Trọn cho cha mẹ bà là ông Nguyễn Văn Chồi và bà Lý Thị Thử. Sau giải phóng, cha mẹ bà B cho lại bà sử dụng cho đến nay. Do ông C khó khăn về nhà ở và là người tàn tật nên cha mẹ bà B cho ông C lợp một căn nhà lá ở tạm bên hông Miếu họ (Miếu Bà Thới Đông), sau khi ông C chết con gái ông C là bà H tự xây dựng lại căn nhà ra phía trước mặt tiền sử dụng không có sự đồng ý của bà B. Năm 2002, bà B làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được biết diện tích đất tranh chấp 114,9m2 trong tổng diện tích 327,6m2 bà B đang sử dụng đã được Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận số C244031 ngày 15/4/1996 cho ông C. Bà B có nộp đơn tranh chấp tại Ủy ban nhân dân xã X1, sau nhiều lần hòa giải bà H yêu cầu bà B cho thêm chiều dài 5m mới đồng ý giao trả giấy chứng nhận để Ủy ban nhân dân huyện H thu hồi, bà B không đồng ý nên bà H không trả giấy chứng nhận và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện H. Ngày 07/6/2012, Ủy ban nhân dân xã X1 ban hành Văn bản số 484/UBND gửi Ủy ban nhân dân huyện H đề nghị xem xét thu hồi giấy chứng nhận cấp cho ông C nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc trả lại đất, bị đơn không đồng ý. Nay bà B yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Huỳnh Văn C, vì cấp sai phần đất có diện tích 114,9m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí áp ranh số hợp đồng 107422/TTĐĐBĐ-CNHM (CS1) ngày 23/11/2021 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện H trước đây có ông Dương Văn Quý là người đại diện theo ủy quyền, nay là bà Nguyễn Thị Xuân trình bày:
Ngày 15/4/1996, Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01272 QSDĐ/01.12.95 cho ông Huỳnh Văn C với diện tích 420m2, thửa 16 tờ bản đồ số 12 tọa lạc tại xã X1, huyện H theo Quyết định số 145/QĐ-UB ngày 01/12/1995 của Ủy ban nhân dân huyện H. Ông C đã cất nhà ở trên đất (mang số 58/2B ấp A1, xã X1). Năm 2005, ông C chết, con là bà H tiếp tục sử dụng.
Việc cấp giấy chứng nhận cho ông C là không đúng hiện trạng vì trên đất này có phần miếu của gia tộc bà B đã tồn tại từ trước năm 1975 nên vào năm 2012, bà B làm đơn khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận cho ông C bao gồm phần đất thuộc miếu của gia tộc bà. Ngày 7/6/2012, Ủy ban nhân dân xã X1 ban hành Công văn số 484/UBND gửi Ủy ban nhân dân huyện H đề nghị xem xét thu hồi giấy chứng nhận cấp cho ông C, lý do thu hồi: Cấp luôn phần đất miếu của gia tộc bà B.
Trong quá trình xem xét lại việc cấp giấy chứng nhận cho ông C, thì bà H nộp đơn khởi kiện nên Ủy ban nhân dân huyện H chưa thu hồi giấy chứng nhận cấp cho ông C. Nay với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân huyện H có ý kiến như sau: Việc cấp giấy chứng nhận tại thửa 16 tờ bản đồ 12 xã X1 với diện tích 420m2 cho ông C là không đúng hiện trạng sử dụng (có một phần đất miếu của gia tộc bà B); do đó, cần thiết phải thu hồi giấy chứng nhận trên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Bá Đ trình bày: Thống nhất như lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đồng thời xin vắng mặt trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 848/2022/DS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố H đã quyết định như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Kim H về việc buộc bà Nguyễn Thị B trả lại cho những người thừa kế của ông Huỳnh Văn C diện tích đất 114,9m2 thuộc một phần thửa 16, tờ bản đồ số 12 xã X1.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị B về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01272 QSDĐ/01.12.95 ngày 15/4/1996 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố H cấp cho ông Huỳnh Văn C.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/6/2022, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Kim H có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Bà Huỳnh Thị Kim H, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và xác định diện tích đất 114,9m2 thuộc một phần thửa 16, tờ bản đồ số 12 xã X1 đang tranh chấp là diện tích nằm trong khuôn viên, bờ rào của miếu Bà Thới Đông, tường rào này được xây dựng năm 1996, nhưng lại nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Huỳnh Văn C (cha của bà H).
Trên cơ sở xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến tranh luận của các bên, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
* Về tố tụng:
[1] Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Kim H khởi kiện đề nghị Tòa án buộc bị đơn bà Nguyễn Thị B trả lại diện tích đất 114,9m2 thuộc một phần thửa 16, tờ bản đồ số 12 xã X1, huyện H lấn chiếm. Còn bị đơn bà Nguyễn Thị B có yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01272 QSDĐ/01.12.95 ngày 15/4/1996 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố H cấp cho ông Huỳnh Văn C (Là cha của bà H). Tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định hành chính cá biệt, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố H là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Vụ án này, được Tòa án nhân dân huyện H thụ lý từ ngày 17/4/2014, đến ngày 13/01/2017 Tòa án nhân dân huyện H chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân dân Thành Phồ H để giải quyết theo thẩm quyền, đến ngày 15/6/2022 mới xét xử (08 năm), là vi phạm về thời hạn giải quyết vụ án dân sự. Tuy đây không phải là căn cứ hủy án, nhưng cần nêu ra để Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
* Về nội dung:
[3] Theo lời trình bày của bị đơn bà Nguyễn Thị B, thì diện tích đất 114,9m2 thuộc một phần thửa 16, tờ bản đồ số 12 xã X1, huyện H đang có tranh chấp giữa bà H với bà B, theo trình bày của Ủy ban nhân dân huyện H, đất này có nguồn gốc của ông bà ngoại của bà B là ông Lý Văn Còn và bà Trần Thị Trọn cho cha mẹ của bà B là ông Nguyễn Văn Chồi và bà Lý Thị Sử quản lý và sử dụng từ sau ngày giải phóng miền nam năm 1875 đến nay. Do ông Huỳnh Văn C (Là cha của bà H) không có đất làm nhà ở, nên ông Chồi, bà Lý cho ông C cất 01 căn nhà tạm, lợp bằng là trên đất, đến năm 1996 ông C được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01272 QSDĐ/01.12.95 ngày 15/4/1996 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố H cấp cho ông Huỳnh Văn C.
[4] Lời trình bày của bà B là phù hợp với lời trình bày của Ủy ban nhân dân huyện H, như sau: Ngày 15/4/1996, Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01272 QSDĐ/01.12.95 cho ông Huỳnh Văn C với diện tích 420m2, thửa 16 tờ bản đồ số 12 tọa lạc tại xã X1, huyện H theo Quyết định số 145/QĐ-UB ngày 01/12/1995 của Ủy ban nhân dân huyện H. Ông C đã cất nhà ở trên đất (mang số 58/2B ấp A1, xã X1). Năm 2005, ông C chết, con là bà H tiếp tục sử dụng. Việc cấp giấy chứng nhận cho ông C là không đúng hiện trạng vì trên đất này có phần miếu của gia tộc bà B đã tồn tại từ trước năm 1975 nên vào năm 2012, bà B làm đơn khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận cho ông C bao gồm phần đất thuộc Miếu của gia tộc bà B. Ngày 7/6/2012, Ủy ban nhân dân xã X1 ban hành Công văn số 484/UBND gửi Ủy ban nhân dân huyện H đề nghị xem xét thu hồi giấy chứng nhận cấp cho ông C, lý do thu hồi: Cấp luôn phần đất Miếu của gia tộc bà B. Trong quá trình xem xét lại việc cấp giấy chứng nhận cho ông C, thì bà H nộp đơn khởi kiện nên Ủy ban nhân dân huyện H chưa thu hồi giấy chứng nhận cấp cho ông C được.
[5] Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn bà Huỳnh Thị Kim H, thừa nhận diện tích đất 114,9m2 thuộc một phần thửa 16, tờ bản đồ số 12 xã X1 đang tranh chấp là diện tích nằm trong khuôn viên, bờ rào Miếu thờ của gia đình bà B, tường rào này được gia đình bà B xây dựng năm 1996, nhưng do nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cha bà H là ông Huỳnh Văn C nên bà H khởi kiện đòi bà B trả lại.
[6] Như vậy, có căn cứ xác định diện tích đất đất 114,9m2 đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà B, nhưng bị ông C kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 1996 Ủy ban nhân dân huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cha bà H là ông Huỳnh Văn C là không đúng hiện trạng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn trả lại diện tích đất 114,9m2, chấp nhận yêu cầu của bị đơn hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01272 QSDĐ/01.12.95 cấp cho ông Huỳnh Văn C là có căn cứ, đúng pháp luật. Nên kháng cáo của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Kim H đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm buộc bị đơn bà Nguyễn Thị B trả lại diện tích đất 114,9m2 không được chấp nhận.
[7] Quan điểm của Đại diện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H đề nghị không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Kim H, giữ nguyên bản án sơ thẩm, là có căn cứ chấp nhận.
[8] Án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu.
[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 34; Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 203 Luật đất đai năm 2013.
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Kim H.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 848/2022/DS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố H.
Áp dụng Điều 164, Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 5 Điều 26; Điều 170 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Kim H về việc buộc bà Nguyễn Thị B trả lại diện tích đất 114,9m2 thuộc một phần thửa 16, tờ bản đồ số 12 xã X1, huyện H, Thành phố H.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị B. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C244031 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 01272 QSDĐ/01.12.95 ngày 15/4/1996 do Ủy ban nhân dân huyện H, Thành phố H cấp cho ông Huỳnh Văn C.
3. Những người thừa kế hợp pháp của ông Huỳnh Văn C được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại đối với thửa 16, tờ bản đồ số 12 xã X1, huyện H, Thành phố H của ông Huỳnh Văn C (Trừ diện tích đất 114,9m2 nêu trên của bà Nguyễn Thị B theo Bản án này).
4. Bà Nguyễn Thị B được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 114,9m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí áp ranh số hợp đồng 107422/TTĐĐBĐ-CNHM (CS1) ngày 23/11/2021 của trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố H theo quy định của Luật đất đai.
5. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số AA/2021/0002633 ngày 13/7/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H.
6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 693/2022/DS-PT
Số hiệu: | 693/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về