TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 808/2023/DS-PT NGÀY 30/11/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 361/2023/DSPT ngày 22 tháng 6 năm 2023, về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 595/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2802/2023/QĐPT-DS, ngày 25 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1980. Địa chỉ: 03 Hồ Bá K, Ph 15, Q 10, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1979; cư trú tại: 256 Bắc H, Ph 6, quận T B, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo uỷ quyền (Giấy ủy quyền được công chứng số 21088, Quyển số 08 ngày 26/8/2017 tại Phòng Công chứng số 2 Thành phố Hồ Chí Minh); có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1952; cư trú tại: 241/30 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1971; có mặt.
2. Bà Châu Tú Kh, sinh năm 1976; có mặt.
3. Ông Nguyễn Quốc A, sinh năm 1995; vắng mặt.
1 Cùng cư trú tại: 241/30 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Bà Đỗ Tuy Tr, sinh năm 1960; cư trú tại: 241/24/3 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
5. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: 86 Lê Thánh T, phư ờng Bến Ng, Q 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
- Bà Lưu Trầm Dạ Th - Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Bùi Trọng O - Trưởng phòng Tư ph Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng địa chỉ:
107 Cao Văn L, Ph 1, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (Theo Giấy ủy quyền số 3463/UBND-PCNC ngày 02/8/2018 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh); vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; bà Nguyễn Thị S là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn là bà Lê Thị H có người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Th thống nhất trình bày:
- Đầu năm 2009, bà Lê Thị H có mua căn nhà số 241/24/3 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6 của bà Nguyễn Thị Ngọc Ph. Hiện trạng nhà đất đúng như chủ quyền do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/10/2001. Tới đầu năm 2013, bà H định xây lại nhà thì phát hiện ra phần sân trống phía sau nhà đã bị bà Nguyễn Thị S (là chủ sử dụng nhà đất 241/30 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6) lấn chiếm, diện tích lấn chiếm đúng như bản vẽ do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 05/4/2019.
- Nay bà H yêu cầu bà Nguyễn Thị S và những người khác trong căn nhà 241/30 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6 phải trả lại cho bà H phần đất đã lấn chiếm.
- Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu công nhận cho bị đơn phần quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà phần diện tích hiện trạng trùng ranh 29,4 m2 theo Bản vẽ do Trung tâm đo đạc bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 05/4/2019 và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 22350/2001 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/10/2001 đối với căn nhà 241/2../3 Tân Hòa D, Ph 14, Q 6 thì nguyên đơn không đồng ý.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị Suông có ý kiến trình bày:
Căn nhà số 241/3.. Tân Hòa Đ, Phường 14, Quận 6 có nguồn gốc do cha mẹ bà S là ông Nguyễn Văn Í và bà Hà Thị Đ tự sang lấp ao cất nhà ở tạm vào năm 1969. Năm 1983, mẹ bà S mua thêm một phần đất sát bên hông nhà với diện tích 17m2 của bà Đỗ Thị Nh. Giấy thỏa thuận mua bán đất được mẹ bà và bà Nh ký vào ngày 19/10/1983. Năm 1993, Ủy ban nhân dân Quận 6 cấp giấy phép hợp thức hóa chủ quyền số 603/GP-UB ngày 07/6/1993 cho căn nhà số 241/25/12G (nay là 241/30) đường Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6 cho mẹ bà S là bà Hà Thị Đ. Hiện trạng căn nhà lúc bấy giờ như sau: Diện tích đất 52,99m2, loại nhà phố, cấp 3, cấu trúc trệt, kết cấu gạch + ván, mái tole.
Năm 1997, mẹ bà S chết, anh em bà S khai di sản thừa kế và tặng cho lại bà S theo Hợp đồng tặng cho số 08518/HĐ-TCN ngày 04/12/2003 tại Phòng Công chứng số 2 và đã trước bạ. Năm 1999, bà S có đăng ký kê khai nhà đất số 7011127 ngày 31/12/1999 được Ủy ban nhân dân Ph 14, Q 6 xác nhận, diện tích toàn bộ khuôn viên là 80m2; Diện tích xây dựng là 80m2; Số tầng 1, loại nhà phố. Năm 2000, bà S mua thêm một phần đất có diện tích 25m2 phía sau nhà của ông Nguyễn Văn H và vợ là bà Nguyễn Thị J theo giấy tay ngày 13/11/2000. Khi đó, phần diện tích này ông H mua của ông V cũng bằng giấy tay theo Bản thanh lý hợp đồng mua bán nhà ngày 22/10/2000. Thời điểm bán cho ông H, ông V chưa hợp thức hóa được căn nhà đã bán. Tuy nhiên, lúc ông H bán đất cho bà S thì có ông V chứng kiến (có thể hiện trên giấy tay mua bán ngày 22/10/2000). Ngày 08/8/2008, ông A (trước đó là chủ đất) cũng có văn bản xác nhận về việc không tranh chấp với gia đình bà S về diện tích bà S mua bán giấy tay của ông H. Tuy đã bán nhà cho ông H nhưng ông V vẫn đứng tên thay để thuận lợi việc hợp thức hóa cho ông H. Ông V đã được Ủy ban nhân dân Thành phố cấp giấy chứng nhận chủ quyền số 22350/2001 ngày 17/10/2001. Diện tích giấy chứng nhận không đúng với hiện trạng thực tế do có một phần diện tích đất đã bán cho bà S chưa được trừ ra.
Năm 2013, bà S xây lại căn nhà theo bản vẽ do Công ty Trách nhiệm hữu hạn thiết kế - xây dựng Lam H lập ngày 05/11/2012 thì hiện trạng căn nhà số 241/3.. Tân Hoà Đ, Ph 14, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh có cấu trúc là: Diện tích đất 99,1m2, diện tích xây dựng 86,6m2, tổng diện tích sàn 145,8m2, số tầng 2, cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng 145,8m2. Kết cấu: Tường gạch, cột bê tông cốt thép, sàn gỗ + bê tông giả, sân thượng bê tông cốt thép, mái tole. Để làm thủ tục hoàn công cũng như cấp đổi giấy chứng nhận, bà S đã liên hệ với chủ nhà bà Lê Thị O để thỏa thuận thì phát hiện giấy chủ quyền của bà O có chồng lấn ranh sang phần đất của bà S nên hai bên xảy ra tranh chấp. Tại địa chỉ 241/3.. Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6 hiện nay có những người đang cư trú là bà S, ông Q, ông H, bà Kh.
Ngoài ra không còn ai khác.
Hiện trạng phần đất bà O đang tranh chấp đòi bà S phải trả đã xây dựng thành nhà kiên cố từ năm 2006. Ngày 05/4/2019, Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành đo vẽ hiện trạng nhà đất, bà S thống nhất với hiện trạng đo vẽ. Tuy nhiên, phần hiện trạng tranh chấp phía nguyên đơn xác định là 29,4m2 thì phía bị đơn không đồng ý vì trong 29,4m2 có một phần diện tích thuộc quyền sử dụng của phía bị đơn (khoảng 4- 5m2).
Nay đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà S không đồng ý. Bà S cũng có yêu cầu phản tố, cụ thể: Yêu cầu Tòa án công nhận cho bà S quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trên phần diện tích 29,4m2 theo Bản vẽ do Trung tâm đo đạc bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 05/4/2019 do bà S đã mua của ông H bà J theo giấy mua bán năm 2000. Đồng thời bà yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu một phần nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 22350/2001 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/10/2001 đối với nhà đất 241/2../3 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6, bà Lê Thị O được cập nhật sang tên ngày 19/3/2009.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Q, bà Châu Tú Kh, ông Nguyễn Quốc H thống nhất trình bày:
Thống nhất như trình bày của bà Nguyễn Thị S, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn và giải quyết vụ án theo quy định.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Đỗ Tuy Tr trình bày:
Khoảng từ tháng 5/2009 đến tháng 9/2014, bà Trân có ở nhờ nhà cháu là Lê Thị O tại địa chỉ 241/2../3 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6. Trong thời gian ở thì bà Tr thường xuyên đi công tác xa nhà. Phía sau nhà 241/2../3 có một cái sân để trống, có cửa mở đi ra nhưng thực bà Tr không rõ là đất của ai. Khoảng năm 2009 thì bà Tr thấy phần sân trống phía sau đã được xây nhà và bít cửa. Lúc đó, bà Tr cũng không có ý kiến gì và cũng không báo lại bà O do bà Tr không biết.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có người đại diện theo ủy quyền là bà Lưu Trầm Dạ T và ông Bùi Trọng S có ý kiến trình bày:
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 22350/2001 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/10/2001 đối với nhà đất 241/2../3 Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6 cấp cho ông Khưu Văn V là đúng trình tự thủ tục luật định. Do đó, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị S.
Tại Bản án dân sự số 595/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Luật Đất đai năm 1993; Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị O về việc buộc bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Nguyễn Văn Q, bà Châu Tú Kh, ông Nguyễn Quốc H những người đang cư trú thực tế tại căn nhà 241/3.. Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6 phải giao trả nguyên hiện trạng phần nhà đất có diện tích 21,4 m2 cho bà Lê Thị O, được xác định theo Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh lập ngày 05/4/2019 do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập (Bản đồ vị trí 1/500 theo tài liệu năm 2002), thực hiện ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S về việc hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 22350/2001 ngày 17/10/2001 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất điều chỉnh phần diện tích được công nhận là 109,8m2.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S về việc công nhận phần nhà đất có diện tích 21,4m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh lập ngày 05/4/2019 do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập (Bản đồ vị trí 1/500 theo tài liệu năm 2002) cho bà Nguyễn Thị S.
Đối với phần diện tích 8m2 còn lại (29,4 m2 - 21,4 m2) bà S có quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để xin công nhận theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/5/2022 bà Nguyễn Thị S kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà O, chấp nhận đơn phản tố của bà S. Tại phiên tòa, bà Suông cho rằng nhà đất có nguồn gốc do cha mẹ để lại; sau đó nhận chuyển nhượng thêm và xây dựng nhà ở từ năm 2006 cho đến nay, việc xây dựng nhà một lần có kết cấu từ trước ra sau, bằng bê tông cốt thép; không có căn cứ lấn chiếm đất của bà O. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bà S, bác đơn khởi kiện của bà O.
Bà Th người đại diện theo ủy quyền của bà O cho rằng diện tích 21,4m2 Tòa án cấp sơ thẩm xác định của bà O là phù hợp, nay bà S cho rằng do kết cấu nhà không trả được đất thì đề nghị gia đình bà S phải trả lại giá trị đất theo Chứng thư thẩm định giá cho bà O.
Ngày 17/5/2022 người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của UBND Thành phố Hồ Chí Minh kháng cáo yêu cầu giữ nguyên giấy CNQSHN ở và QSDĐ ở đối với ông V đã cập nhật sang tên bà O. Tòa cấp phúc thẩm triệu tập hợp lệ nhiều lần đối với UBND Thành phố Hồ Chí Minh và người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của UBND Thành phố Hồ Chí Minh nhưng đều vắng mặt không có lý do.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Về thủ tục tố tụng những người tiến hành tố tụng, các đương sự tuân thủ đúng theo quy định; về nội dung kháng cáo: Nguồn gốc nhà đất của cha mẹ bà S, trong quá trình sử dụng gia đình bà S chỉ kê khai đăng ký và chấp nhận 77,3m2, được cơ quan chức năng cho phép xây dựng trên diện tích 77,3m2; đồng thời bà S cũng có ký giáp ranh đất. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết công nhận bà S sử dụng 77,3m2 là phù hợp. Nay bà S kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ mới, để chứng minh cho yêu cầu của bà S, nên đề nghị bác đơn kháng cáo của bà S và do không thể trả lại đất nên buộc bà S trả bằng giá trị để bảo đảm thi hành án là phù hợp. Đối với kháng cáo của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Tòa đã triệu tập hợp lệ hai lần, vắng mặt không có lý do nên đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:
- Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị S, người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của UBND Thành phố Hồ Chí Minh đúng theo quy định của pháp luật, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1]. Theo đơn khởi kiện của bà Lê Thị O và đơn phản tố của bà Nguyễn Thị S; Toà án cấp sơ thẩm xác định đây là quan hệ dân sự, về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, đương sự có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, được quy định tại khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
[2]. Về nguồn gốc, quá trình quản lý sử dụng nhà đất 241/25/12G ông Nguyễn Văn Í và bà Hà Thị Đ tạo lập từ năm 1969; theo Giấy phép hợp thức hóa chủ quyền nhà số 603/GP-UB ngày 07/6/1993 thì căn nhà số 241/25/12G Tân Hòa Đ do bà Hà Thị Đ đứng tên sử dụng diện tích 52,99m2 đất (chưa có số thửa, tờ bản đồ). Năm 1983, bà Hà Thị Đ mua thêm một phần đất sát bên hông nhà với diện tích 17m2 của bà Đỗ Thị Nh lập bằng giấy tay ngày 19/10/1983. Năm 1997, bà Hà Thị Đ chết, anh em bà S khai di sản thừa kế và đã tặng cho toàn bộ căn nhà số 241/2../12G Tân Hòa Đ cho bà S theo Hợp đồng tặng cho số 08518/HĐ-TCN ngày 04/12/2003 tại Phòng Công chứng số 2 và ngày 08/8/1999, bà S đã kê khai toàn bộ khuôn viên là 80m2 (không kê khai số thửa). Theo Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 07/8/2001 thì nhà đất 241/25/12G Tân Hòa Đ có diện tích 77,3m2 thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ 26. Theo Bảng thống kê diện tích, loại đất, chủ sử dụng theo hiện trạng tại Ph 14, Q 6 được lập ngày 08/10/2001 thì nhà đất 241/25/12G Tân Hòa Đ có diện tích 77,3m2 và theo Trích lục hồ sơ kỹ thuật thửa đất số 1187/VPĐKQSDĐ ngày 27/8/2014 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thì 241/25/12G Tân Hòa Đ có diện tích 77,3m2, thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ 26; theo Giấy cam kết xin phép xây dựng nhà ở ngày 15/11/2006, bà Suông xác định căn nhà 241/25/12G Tân Hòa Đ có diện tích 77,3m2, thuộc thửa số 61, tờ bản đồ 26 do bà S tự sang lấp năm 1982. Ngày 04/12/2006, bà S được UBND Quận 6 cấp Giấy phép xây dựng tạm số 736/GPXDT trên phần diện tích đất 77,3m2, diện tích xây dựng được cấp là 134,56m2, kết cấu: Bán kiên cố 02 tầng (trệt, gác gỗ, mái tôn). Nhưng năm 2006, bà Suông xây dựng nhà 241/2../12.. (nay là số 241/30) Tân Hòa Đ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính do bà có hành vi xây dựng hiện trạng sai phép, bị UBND Ph 14 lập biên bản. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà S, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong căn nhà 241/3.. Tân Hòa Đ đã lấn chiếm diện tích 21,4m2 đất của bà O, theo Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh lập ngày 05/4/2019 do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập (Bản đồ vị trí 1/500 theo tài liệu năm 2002) là có cơ sở.
[3]. Tại phiên tòa, bà S cho rằng diện tích 21,4m2 bà Suông sử dụng xây dựng nhà ở có kết cấu bê tông cốt thép gắn liền với phần nhà phía trước, nếu tháo dỡ sẽ ảnh hưởng kết cấu và có nguy cơ sập đỗ nhà; người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà O yêu cầu bà S tính giá trị đất theo Chứng thư thẩm định giá, để hoàn trả cho bà O là phù hợp; nhằm đảm bảo cho việc thi hành án nên chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của người đại diện của bà O giao 21,4m2 cho bà S và buộc bà S , những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong căn nhà 241/3.. Tân Hòa Đ, phải hoàn trả giá trị QSDĐ cho bà O là 1.942.000.000 đồng (21,4m2 x 90.787.000đ/m2).
[4]. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của UBND Thành phố Hồ Chí Minh kháng cáo, Tòa đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không lý do, căn cứ khoản 2 Điều 312 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
[5]. Bà S là người kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình; lời trình bày của bà S không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận; quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận; không chấp nhận đơn kháng cáo của S; nhưng sửa một phần Bản án dân sự số 595/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm đảm bảo thi hành án. Do không chấp nhận đơn kháng cáo nên bà S phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; vì người cao tuổi nên bà S được miễn.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 312 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận đơn kháng cáo của của bà Nguyễn Thị S; Sửa một phần Bản án dân sự số 595/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Căn cứ khoản 3 Điều 100, khoản 5 Điều 166 Luật đất đai năm 2013; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
a.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị O được sử dụng (109,8m2 - 21,4m2). Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị S và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Nguyễn Văn Q, bà Châu Tú Kh, ông Nguyễn Quốc H là những người đang cư trú thực tế tại căn nhà 241/3.. Tân Hòa Đ, Ph 14, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh phải hoàn trả giá trị quyền sử dụng diện tích 21,4m2 đất là 1.942.000.000 đồng cho bà Lê Thị O.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
b. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S về việc công nhận phần nhà đất có diện tích 21,4m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh lập ngày 05/4/2019 do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập (Bản đồ vị trí 1/500 theo tài liệu năm 2002) cho bà Nguyễn Thị S.
c. Bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn Q, bà Châu Tú Kh, ông Nguyễn Quốc H sau khi hoàn trả cho bà Lê Thị O 1.942.000.000 đồng thì được sử dụng diện tích đất 21,4m2.
d. Bà Lê Thị O; bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn Q, bà Châu Tú Kh, ông Nguyễn Quốc H được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất theo quyết định của bản án, được quy định tại khoản 3 Điều 100 Luật đất đai năm 2013.
Đối với phần diện tích 8m2 còn lại (29,4 m2 - 21,4 m2) bà Suông có quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để xin công nhận theo quy định của pháp luật.
đ. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Nguyễn Thị S được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả cho bà Lê Thị O số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng theo Biên lai thu số AC/2012/06405 ngày 01/7/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng theo Biên lai thu số AC/2012/06914 ngày 03/11/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo Biên lai thu số AA/2019/0024116 ngày 05/8/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị S được miễn 4. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 808/2023/DS-PT
Số hiệu: | 808/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về