Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 74/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 74/2023/DS-ST NGÀY 24/10/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 24 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 19/2022/TLST-DS ngày 23 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu BTTH do tài sản bị xâm hại; Hủy Giấy CNQSDĐ”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2023/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 8 năm 2023, Thông báo mở phiên tòa số 116/TB-TDS ngày 16 tháng 10 năm 2023; Giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lương Thanh H, sinh năm 1931

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Võ Thị T, sinh năm 1935; Địa chỉ: thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P.

Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn X, xã A, huyện T, tỉnh P.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trịnh Bình T1, Văn phòng L5, Đoàn luật sư tỉnh P; Địa chỉ: G N, phường E, thành phố T, tỉnh P.

Tất cả đều có mặt.

2. Bị đơn: Ông Đặng Q, sinh năm 1932 (chết năm 2022);

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bị đơn:

2.1. Ông Đặng Văn T2, sinh năm 1975; Địa chỉ: thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P. Có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bị đơn: Luật sư Lưu Ngọc C, Văn phòng L6, Đoàn luật sư tỉnh P; Địa chỉ: H N, phường G, thành phố T, tỉnh P. Có mặt.

2.2. Ông Đặng Văn Đ, sinh năm 1971. Có mặt.

2.3. Bà Đặng Thị C1, sinh năm 1973 2.4. Bà Đặng Thị S, sinh năm 1977 2.5. Bà Đặng Thị L, sinh năm 1983 2.6. Bà Đặng Thị L1, sinh năm 1986 2.7. Bà Đặng Thị D1, sinh năm 1991 Cùng địa chỉ: Thôn D, xã X, TX S, tỉnh P.

2.8. Bà Đặng Thị L2, sinh năm 1969; Địa chỉ: Khu phố P, phường X, thị xã S, tỉnh P.

2.9. Bà Đặng Thị T3 (chết năm 2012) có các con Bùi Văn N, Bùi Văn N1, Bùi Văn N2, Bùi Thị N3, Bùi Thị N4; địa chỉ: Thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P.

2.10. Bà Lương Thị H1, sinh năm 1944; địa chỉ: Thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P.

Ông Đ, bà C1, bà S, bà L, bà L1, bà D1, bà H1 và các con của bà T3 đều ủy quyền cho ông Đặng Văn T2.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân xã X, TX. S, tỉnh P. Vắng mặt.

2. Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

3. Bà Võ Thị T, sinh năm 1935; Địa chỉ: thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P. Có mặt.

4. Bà Lương Thị K, sinh năm 1931; Địa chỉ: thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

5. Ông Lương Mỹ H2, sinh năm 1943; Địa chỉ: thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khi kiện ngày 21/3/2017, bổ sung ngày 04/4/2017 và 09/5/2017 và quá trình Tòa án giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của ngun đơn bà Võ Thị T thống nhất trình bày như sau:

Cụ Lương M (chết), cụ Trần Thị L3 (chết) có 3 người con tên Lương Thị K, Lương Thanh H, Lương Mỹ H2, khi còn sống có diện tích đất 1.258,7m2 tọa lạc tại B, thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P. Sau khi cha mẹ chết, bà K, bà H2 đều thống nhất giao đất này cho ông H sử dụng để trồng dừa, bạch đàn từ năm 1975 đến năm 2008 không ai tranh chấp. Quá trình sử dụng đất, vợ chồng ông Lương Thanh H, bà Võ Thị T kê khai và được UBND thị xã S cấp GCNQSDĐ số AO 769769 ngày 12/11/2009 đối với thửa đất số 24, tờ bản đồ số 71-ĐC, diện tích 617m2, loại đất trồng cây lâu năm (CLN), có giới cận: Phía Đông giáp đất trồng cây bạch đàn của ông Võ Văn T4; Phía Tây giáp đất vườn của ông Bùi Ngọc H3; phía Nam giáp đất trồng bạch đàn của ông Đặng Q; Phía Bắc giáp đất ruộng lúa của ông Võ Hố. Trên đất có trồng 15 cây dừa, một số cây bạch đàn và trồng lúa. Phần diện tích còn lại 641,7m2 chưa được cấp GCNQSDĐ nhưng vẫn do vợ chồng ông H, bà T sử dụng.

Năm 2008, ông H và ông Đặng Q tranh chấp rẫy bạch đàn ranh giới giữa 02 thửa đất của hai bên diện tích khoảng 60m2, được địa phương hòa giải thành, ông Q thoái công cho ông H 150.000đ, hai bên xác định lại ranh giới và đóng trụ mốc (bằng xi măng) làm ranh giới 02 thửa đất.

Tháng 8/2015, ông H làm hàng rào bằng trụ xi măng theo trụ mốc đã đóng trước đây, tổng cộng trồng 40 trụ và kéo dây thép gai 02 đàng.

Ngày 14/6/2016, ông Q đập phá hàng rào làm hư hỏng 10 trụ rào của ông H. Ông H gửi đơn yêu cầu u, tại buổi hòa giải, ông Q thừa nhận đập phá nhưng không chịu bồi thường nên hòa giải không thành.

Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết:

Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1.258,7m2 tọa lạc tại B, thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P (gồm diện tích 617m2 đã được cấp GCN và 641,7m2 chưa được cấp).

Buộc ông Q (nay do những người thừa kế của ông Q thực hiện) bồi thường 10 trụ xi măng (0,12cm x 0,12cm x 1,5m) là 180.000đ/trụ x 10 trụ = 1.800.000đ, 01 bao xi măng dựng trụ rào 100.000đ, tiền thuê 03 công thợ hồ x 250.000đ/công = 750.000đ. Tổng cộng 2.650.000đ.

Ngày 28/6/2022, trong khi Tòa án đang giải quyết thì ông Đặng Văn Đ (con ông Q) đã làm thay đổi hiện trạng, phá của gia đình ông H thêm 01 cây dừa và 03 trụ bê tông 2. Ông Đặng Văn T2 đồng thời đại diện cho tất cả những người thừa kế của bị đơn ông Đặng Q có đơn phản tố đề ngày 27/12/2018 trình bày:

Toàn bộ diện tích đất 1.258,7m2 tọa lạc tại B, thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P hiện nay ông H tranh chấp với gia đình tôi có nguồn gốc của ông ngoại chúng tôi tên Lương X để lại cho mẹ tôi Lương Thị H1 sử dụng, việc cho này chỉ bằng miệng và giao cho mẹ tôi giữ giấy tờ đất bằng chừ Hán Nôm mà tôi đã nộp cho Tòa án. Gia đình chúng tôi đã sử dụng đất để trồng dừa, bạch đàn, trồng lúa. Tuy nhiên, do không hiểu biết pháp luật, cứ nghĩ rằng đất của gia đình có nguồn gốc, có giấy tờ nên không đăng ký kê khai với Nhà nước. Cha mẹ chúng tôi sử dụng đất để canh tác chứ không sử dụng để ở, do đó năm 2008 khi có tranh chấp với ông H, cha tôi có bồi thường cho ông H tiền ông H trồng cây trên đất 150.000đ chứ không phải công nhận cho ông H có quyền sử dụng đất và phân ranh giới như ông H trình bày. Khi phát hiện ông H làm trụ bê tông rào đất của gia đình thì cha tôi có phá bỏ hàng rào đi dẫn đến hai bên tranh chấp từ năm 2017 đến nay.

Nay cha tôi đã chết, quá trình giải quyết vụ án, tôi đại diện cho mẹ và các anh chị em, yêu cầu Tòa xem xét tài liệu về nguồn gốc đất để công nhận toàn bộ diện tích đất nói trên thuộc quyền sử dụng của gia đình tôi. Việc UBND thị xã s cấp GCNQSDĐ cho ông H, bà T đối với 617m2 đất trong tổng diện tích đất tranh chấp mà không xét về nguồn gốc là không đúng pháp luật nên yêu cầu Tòa hủy GCNQSDĐ này. Do ông H trồng cây, làm rào trên đất của gia đình tôi, cha tôi phá bỏ là đúng nên chúng tôi không chấp nhận bồi thường thiệt hại.

3. Người có quyền li và nghĩa vụ liên quan:

3.1. Tại công văn số 755/UBND ngày 30 tháng 7 năm 2018 Ủy ban nhân dân xã X thể hiện: Diện tích 641,7m2 chưa được cấp giấy CNQSD đất có nguồn gốc do ông Lương Thanh H nhận thừa kế, sử dụng từ sau năm 1975 cho đến nay, không vi phạm pháp luật đất đai, thỏa mãn điều kiện cấp giấy chứng nhận QSD đất theo điều 101 luật đất đai năm 2013 và Điều Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.

3.2. Tại công văn số: 373/UBND-KT ngày 13 tháng 3 năm 2018 và Công văn số: 2473/UBND-NC ngày 31 tháng 12 năm 2019 của UBND thị xã S thể hiện: Phần đất cả hai bên đang tranh chấp (1.258,7m2) do ông Lương Thanh H sử dụng từ sau năm 1975 đến nay, nhưng tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số AO 769769 ngày 12/11/2009, thửa đất không được đo đạc hết thửa (chi thể hiện một phần thửa đất có diện tích 617m2 tại thửa số 24, tờ bản đồ số 71-ĐCII) nên có sự chênh lệch về diện tích đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ nói trên so với phần diện tích thực tế mà ông H đang sử dụng. Việc cấp giấy chứng nhận QSD đất là đúng quy định pháp luật. Phần diện tích đất tăng (641,7m2) được ông Lương Thanh H quản lý, sử dụng từ năm 1975 đến nay và không thuộc đất quản lý của nhà nước. Căn cứ vào Kế hoạch sử dụng đất năm 2018 của thị xã S, được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 2590/QĐ-UBND ngày 29/12/2017 và Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011- 2020 của UBND thị xã, được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1377/QĐ-UBND ngày 15/8/2013 thì phần diện tích đất tranh chấp (1.258,7m2) vẫn giữ nguyên hiện trạng chưa đưa vào quy hoạch.

3.3. Quá trình giải quyết vụ án, bà Lương Thị K, ông Lương Mỹ H2 đều thống nhất thửa đất tranh chấp có nguồn gốc như nguyên đơn Lương Thanh H trình bày, đồng ý giao toàn quyền quản lý, sử dụng cho ông H.

Tòa án nhân dân tỉnh P đã tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận về việc giải quyết vụ án nhưng không thành.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn rút yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, giữ nguyên yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất.

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tại phiên tòa, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Về án phí DSST, chi phí tố tụng khác bị đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thị xã S, UBND xã X có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228 BLTTDS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử.

[2] Về quan hệ pháp luật thẩm quyền: Nguyên đơn ông Lương Thanh H tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Đặng Q, yêu cầu ông Đặng Q, Đặng Văn Đ bồi thường thiệt hại tài sản trên phần đất tranh chấp bị xâm phạm. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố về hủy GCNQSDĐ cấp cho ông Lương Thanh H, bà Võ Thị T, yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đang tranh chấp. Do đó quan hệ pháp luật là “Tranh chấp quyền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại tài sản bị xâm phạm, hủy GCNQSDĐ”. Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37 của BLTTDS, Điều 32 của Luật tố tụng hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh P.

[3] Về nội dung tranh chấp: ông Lương Thanh H, bà Vồ Thị T yêu cầu HĐXX công nhận QSDĐ được UBND thị xã S cấp GCNQSDĐ số AO 769769 ngày 12/11/2009 đối với thửa đất số 24, tờ bản đồ số 71-ĐC, diện tích 617m2, loại đất trồng cây lâu năm (CLN), có giới cận: Phía Đông giáp đất trồng cây bạch đàn của ông Võ Văn T4; Phía Tây giáp đất vườn của ông Bùi Ngọc H3; phía Nam giáp đất trồng bạch đàn của ông Đặng Q; Phía Bắc giáp đất ruộng lúa của ông Võ H4 và phần diện tích còn lại 749,9m2 chưa được cấp GCNQSDĐ thuộc quyền quản lý, sử dụng của vợ chồng ông H, bà T. Nguồn gốc đất theo nguyên đơn là của cha mẹ nguyên đơn: Cụ L, cụ Trần Thị L3 tạo lập. Cụ M và cụ L3 có 3 người con tên Lương Thị K, Lương Thanh H, Lương Mỹ H2. Sau khi các cụ chết, bà K, ông H2 đều thống nhất giao đất này cho ông H sử dụng để trồng dừa, bạch đàn từ năm 1975 cho đến nay. Quá trình TAND thị xã Sông cầu giải quyết vụ án, bị đơn ông Đặng Q cho rằng: Toàn bộ diện tích đất tranh chấp, có nguồn gốc của cụ Lương X để lại cho bà Lương Thị H1 (vợ của ông Q) sử dụng, việc cho này chỉ bằng miệng và giao cho bà H1 giữ giấy tờ đất bằng chữ Hán Nôm. Gia đình ông Q đã sử dụng đất để trồng dừa, bạch đàn, trồng lúa nhưng không đăng ký kê khai với Nhà nước. Năm 2022, ông Q chết thì những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông Q giữ nguyên yêu cầu phản tố: Đề nghị Tòa hủy GCNQSDĐ số AO 769769 ngày 12/11/2009 đối với thửa đất số 24, tờ bản đồ số 71-ĐC, diện tích 617m2, loại đất trồng cây lâu năm (CLN) cấp cho ông Lương Thanh H, bà Võ Thị T và công nhận diện tích đất 1.366,9m2 là của ông Đặng Quề .1

[4] Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ các bản đồ địa chính đo đạc năm 2003, bản đồ đo đạc năm 2012, Mảnh đo đạc hiện trạng sử dụng khu đất số 81-2023 ngày 29/5/2023 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P thực hiện, thấy rằng thửa đất các bên tranh chấp có giới cận phía Nam giáp đất trồng bạch đàn của ông Đặng Quề .1 Quá trình ông H sử dụng diện tích đất tranh chấp từ trước năm 1975 không ai tranh chấp, đến tháng 10/2008 phát sinh tranh chấp giữa ông H và ông T2 (con ông Q), tại Biên bản hòa giải ngày 09/10/2008, ông Q (đại diện cho ông T2 khi đến UBND xã giải quyết tranh chấp) đã xác định khu vực tranh chấp đất có giới cận: Đông giáp ruộng ông H, Tây giáp đất rừng bạch đàn ông Võ Văn T4, Nam giáp đất bạch đàn ông Đặng Q, Bắc giáp ruộng ông Võ Văn T5, với diện tích đất tranh chấp khoảng 60m2 có cây bạch đàn do ông H, ông Q trồng lộn xộn và hai bên đã tự thỏa thuận “Căn cứ diện tích ruộng mở ra hướng Tây vô N5 khoảng 02m có cọc móng đóng hàng rào ngăn hai bên”. Như vậy, căn cứ giới cận đã xác định tại Biên bản hòa giải này phù hợp với giới cận theo Mảnh đo đạc hiện trạng sử dụng khu đất số 81-2023 ngày 29/5/2023. Tại biên bản hòa giải ngày 30/9/2016 (BL13), ông Q cũng trình bày “ông H phải dời hàng rào vô đúng phần đất của ông H, không được lấn sang đất của tôi”. Tại biên bản hòa giải ngày 01/6/2018 (BL128), ông H xác định cây bạch đàn, 15 cây dừa trồng trên đất của ông đang khai thác hưởng hoa lợi, ông Q có trình bày “Thửa đất này có nguồn gốc của ông bà họ L4 để lại cho con cháu, từ năm 1975 tôi canh tác trồng mía, sau đó bà con có đất xung quanh bỏ hoang nên tôi cũng bỏ hoang, yêu cầu ông H dỡ dây thép gai trả đất cho tôi, dừa tôi cho H khai thác hưởng hoa lợi”. Điều này phù hợp với lời khai của người làm chứng như Bùi Thị Kim C2, Võ Văn H5, xác nhận nguồn gốc đất của ông H có trồng dừa, bạch đàn. Việc bị đơn cung cấp bản dịch Hán Nôm, Biên lai nộp thuế điền thổ (bản photo) để chứng minh thửa đất tranh chấp của ông bà để lại nhưng không phù hợp với thực tế sử dụng đất, ngoài tài liệu, chứng cứ giấy tờ đất bằng chữ Hán Nôm nêu trên thì không có tài liệu chứng cứ gì khác. Tại phiên tòa, phía bị đơn cho rằng toàn bộ đất tranh chấp là của gia đình bị đơn, nguyên đơn không có đất ở vị trí này trong khi tất cả các tài liệu có tại hồ sơ đều thể hiện các bên tranh chấp về ranh giới giữa hai thửa đất, về các cây trồng trên đất tranh chấp bị đơn cho rằng do bị đơn trồng nhưng không có tài liệu chứng minh.

[5] Tại các công văn số: 755/UBND ngày 30/7/2018 của Ủy ban nhân dân xã X; Công văn số: 373/UBND-KT ngày 13/3/2018 và 2473/UBND-NC ngày 31/12/2019 của UBND thị xã s đều xác định: Phần đất cả hai bên đang tranh chấp do ông Lương Thanh H sử dụng từ sau năm 1975 đến nay, nhưng tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số AO 769769 ngày 12/11/2009, thửa đất không được đo đạc hết thửa (chỉ thể hiện một phần thửa đất có diện tích 617m2 tại thửa số 24, tờ bản đồ số 71-ĐCII) nên có sự chênh lệch về diện tích đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ nói trên so với phần diện tích thực tế mà ông H đang sử dụng. Việc cấp giấy chứng nhận QSD đất là đúng quy định pháp luật. Phần diện tích đất tăng chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất được ông Lương Thanh H quản lý, sử dụng từ năm 1975 đến nay và không thuộc đất quản lý của nhà nước. Do đó, đủ căn cứ xác định diện tích đất các bên tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn như ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa, nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đòi công nhận diện tích đất tranh chấp và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD đất được UBND thị xã S cấp số AO 769769 ngày 12/11/2009 đối với thửa đất số 24, tờ bản đồ số 71-ĐC, diện tích 617m2, loại đất trồng cây lâu năm (CLN) cho vợ chồng ông H, bà T là phù hợp.

[6] Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lương Thanh H rút yêu cầu bị đơn ông Đặng Q, ông Đặng Văn Đ (con ông Q) bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất tranh chấp bị xâm hại nên HĐXX chấp nhận đình chỉ giải quyết yêu cầu trên.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông Đặng Q phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 34, 147, 157, 165, 228, 217, 218 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 32 của Luật tố tụng hành chính;

Áp dụng các Điều 164, 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 106, 131, 170, 166 Luật đất đai năm 2013; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Lương Thanh H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T về việc công nhận diện tích đất 1.366,9m2 thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông H, bà T, tọa lạc tại thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P (có bản vẽ kèm theo); Trong đó, diện tích 617m2/1.366,9m2 được UBND thị xã S cấp GCNQSDĐ số AO 769769 ngày 12/11/2009 đối với thửa đất số 24, tờ bản đồ số 71-ĐC, loại đất trồng cây lâu năm (CLN). Tạm giao diện tích đất 749,9m2 cho ông Lương Thanh H, bà Võ Thị T quản lý, sử dụng và liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục pháp lý đối với diện tích trên theo quy định.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Đặng Q về yêu cầu hủy GCNQSDĐ số AO 769769 ngày 12/11/2009 đối với thửa đất số 24, tờ bản đồ số 71-ĐC, diện tích 617m2, loại đất trồng cây lâu năm (CLN) cấp cho ông Lương Thanh H, bà Nguyễn Thị T6 và công nhận diện tích đất 749,9m2, tọa lạc tại thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P cho gia đình ông Đặng Quề . 1 3. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu buộc ông Đặng Q, ông Đặng Văn Đ bồi thường thiệt hại tài sản bị xâm hại.

4. Về án phí: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Đặng Q do ông Đặng Văn T2 đại diện phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000026 ngày 23.7.2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh P, nên đã nộp đủ.

H6 lại cho ông Lương Thanh H số tiền tạm ứng án phí 300.000đ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 3085 ngày 04.4.2017 tại Chi cục THADS thị xã S, tỉnh P.

4. Về chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản tại Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu và Tòa án nhân dân tỉnh P số tiền 17.000.000đ: Người thừa kế của ông Đặng Q do ông Đặng Văn T2 đại diện phải chịu. Ông H đã nộp tạm ứng 10.000.000đ, ông Q đã nộp tạm ứng 7.000.000đ nên ông T2 hoàn lại cho ông H số tiền 10.000.000đ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 74/2023/DS-ST

Số hiệu:74/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về