TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 66/2023/DS-PT NGÀY 08/12/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 08 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Q xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2023/TLPT-DS ngày 09 tháng 10 năm 2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Q bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 46/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T; cùng địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Trần Thị Hoàng M; địa chỉ: Khu phố A, Phường E, thành phố Đ, Q; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 22/6/2022). Có mặt
2. Bị đơn: Bà Văn Thị V; địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
- Bà Văn Thị Q; địa chỉ: Khóm G, thị trấn D, huyện H, tỉnh Q. Có mặt.
- Bà Văn Thị Kim T1; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Có mặt.
Là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 03/4/2023).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Văn Thị V: Luật sư Bảo C - Văn phòng L1, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Văn Thị Ái T2; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
- Chị Văn Thị Phương D và anh Văn Viết Phương H; cùng địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của chị Văn Thị Ai T2, chị Văn Thị Phương D, anh Văn Viết Phương H: Bà Trần Thị Hoàng M - Văn phòng L2; địa chỉ: D T, Khu phố A, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Q; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 02/8/2023). Có mặt.
- Ông Văn Đức L; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q (đã chết).
Những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Văn Đức L:
+ Bà Trần Thị P; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
+ Ông Văn Đức T3; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
+ Ông Văn Đức H1, ông Văn Đức Đ; đều có địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
+ Bà Văn Thị V; địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
+ Ông Văn Đức H2; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
+ Ông Văn Đức T4; địa chỉ: Khóm C, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.
+ Bà Văn Thị Q; địa chỉ: Khóm G, thị trấn D, huyện H, tỉnh Q. Có mặt.
+ Bà Văn Thị Kim T1; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Văn Đức L:
+ Bà Văn Thị Q; địa chỉ: Khóm G, thị trấn D, huyện H, tỉnh Q. Có mặt.
+ Bà Văn Thị Kim T1; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Q. Có mặt.
Là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 10/7/2023).
4. Người kháng cáo: Bà Văn Thị V là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Trong đơn khởi kiện ngày 05 tháng 02 năm 2023, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:
Thửa đất số 213, tờ bản đồ số 11 tại thôn P, xã H, có diện tích 4.393m2 đã được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 189284 vào ngày 19/12/2006 cho hộ ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T. Liền kề với thửa đất số 213 là thửa đất số 209 thuộc quyền sử dụng của ông Văn Đức L. Quá trình sử dụng đất, ông A, bà T luôn coi trọng và giữ đúng ranh giới giữa các thửa đất nhưng phía gia đình ông Văn Đức L đã lấn chiếm 23m2 đất và trồng cây trên phần đất thuộc quyền sử dụng của ông A, bà T. Gia đình ông A đã nhiều lần nhắc nhở gia đình ông L nhổ hoặc cưa bỏ phần cây đã trồng để trả đất nhưng gia đình ông L vẫn tiếp tục sử dụng phần đất lấn chiếm và không chịu trả lại cho gia đình ông A. Ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T đã nhiều lần khiếu nại yêu cầu UBND xã H, Toà án giải quyết tranh chấp đất đai. Quá trình giải quyết tranh chấp, ông Văn Viết A biết được ông Văn Đức L đã tiến hành tách thửa đất số 209 thành nhiều thửa đất để tặng cho các con của ông L vào năm 2016 và phần đất đã bị lấn chiếm giáp ranh với thửa số 524 của bà Văn Thị V, con gái ông Văn Đức L. Sau khi được quyền sử dụng thửa đất số 524, tờ bản đồ số 11 giáp ranh với thửa đất số 213 của ông Văn Viết A thì bà Văn Thị V sử dụng phần đất đã lấn chiếm của gia đình ông Văn Viết A. Quá trình các bên đang tranh chấp, bà Văn Thị V đóng cột mốc, lấn chiếm thêm đất, diện tích lấn chiếm là 50m2. Qua đo đạc tại phiên xem xét, thẩm định tại chỗ của Toà án nhân dân huyện H, diện tích này là 56m2.
Vì vậy, ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T yêu cầu bà Văn Thị V phải trả lại 56m2 đất là một phần của thửa đất số 213, tờ bản đồ số 11 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 189284 vào ngày 19/12/2006 cho hộ ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T. Yêu cầu bà Văn Thị V và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Văn Đức L chặt bỏ các cây trồng trên phần đất lấn chiếm, cụ thể là 6 cây tràm mà ông Văn Đức L đã trồng, để trả lại mặt bằng cho gia đình ông Văn Viết A.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn, người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:
Bà Văn Thị V là chủ sử dụng thửa đất số 524, tờ bản đồ số 11, tại thôn P, xã H, liền kề với thửa đất số 213 của ông Văn Viết A. Thửa đất số 524 mà bà V được quyền sử dụng là do ông Văn Đức L, bố của bà V tặng cho. Gia đình bà sử dụng đất từ năm 1975 đến nay, đã trồng cây hiện nay vẫn còn. Liền kề với thửa đất của gia đình bà là thửa đất của ông Văn Viết O (đã mất), bố của ông Văn Viết A. Cả hai gia đình đều có nguồn gốc đất khai hoang, gia đình bà V sử dụng đất từ năm 1975, khai hoang đến đâu thì trồng trọt đến đó. Để chứng minh việc sử dụng ranh giới giữa hai lô đất, ông Văn Viết O có trồng hàng tre gai, cây khế và bụi hóp ngoài đường (giáp đường thôn hiện nay) để làm hàng rào ngăn cách giữa hai lô đất. Từ đó gia đình bà V khồng thể trồng cây nên phải đào ao và giao thông hào để ngăn cách giữa hai lô đất kéo dài cho đến xuống phần đất của ông Văn Viết Q1, vì vậy thế đất của ông Văn Viết A cao hơn phần đất của gia đình bà. Đây là ranh giới tự nhiên đã hình thành từ lâu đời. Và hai gia đình căn cứ vào ranh giới phân chia để sử dụng ổn định, không xảy ra tranh chấp. Sau khi khai thác cây tràm lần thứ nhất và lần thứ hai, ông Văn Viết A đã cho xe ủi phá múc đất và cày các bụi tre, cây khế và hóp. Như vậy, ông A đã tự ý xoá ranh giới giữa hai lô đất đã có từ lâu đời căn cứ vào hàng tre, khế và bụi hóp. Hiện tại, sau khi ông A phá bỏ phần cây sống nhưng hiện trạng vẫn còn các gốc tre, gốc khế, ụ mối làm ranh giới. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ông Văn Viết A đã cấp chồng lấn lên trên đất của gia đình bà V sử dụng từ năm 1975 cho đến nay. Trên đất còn có một số cây lưu niên do ông Văn Đ1 Luân trồng gồm 06 cây tràm lớn, trồng vào khoảng năm 1980- 1985; 01 cây khế và 01 cây tràm trồng khoảng 10 năm nay. Phần đất đang tranh chấp 56m2 và tài sản trên đất là của gia đình bà V, do gia đình bà V khai hoang. Việc ông Văn Viết A cho rằng bà V lấn chiếm 56m2 đất là không có căn cứ.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Văn Viết A là sai, cấp không đúng vì trên đất có tài sản của ông Văn Đức L, yêu cầu Tòa án tạm đình chỉ vụ án để bị đơn đi đến cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các bên.
3. Ý kiến của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Văn Đức L: Tại bản tự khai ngày 27/3/2023, ông L thống nhất với ý kiến của bị đơn bà Văn Thị V.
- Chị Văn Thị Ái T2, chị Văn Thị Phương D, anh Văn Viết Phương H: Thống nhất với ý kiến của ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T.
Bản án sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của TAND huyện H quyết định:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Căn cứ vào Điều 166, 175 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166, khoản 1 Điều 170, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013. Xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T.
Buộc bà Văn Thị V phải trả lại 56m2 đất là một phần của thửa đất số 213, tờ bản đồ số 11, tại thôn P, xã H, đã được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 189284 vào ngày 19/12/2006 cho hộ ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T. Vị trí phần đất 56m2 này được xác định bởi các điểm tọa độ 2; 3; 16; 15 theo bản đồ hiện trạng sử dụng thửa đất được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh L2 - Chi nhánh huyện H ký ngày 28/6/2023, cụ thể:
- Điểm tọa độ 2: X = 1849585.560; Y = 600618.160 - Điểm tọa độ 3: X = 1849585.610; Y = 600619.550 - Điểm tọa độ 16: X = 1849542.620; Y = 600622.000 - Điểm tọa độ 15: X = 1849542.740; Y = 600620.760 Buộc bà Văn Thị V và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Văn Đức L là các ông, bà Trần Thị P, Văn Đức T3, Văn Đức H1, Văn Đức Đ, Văn Đức H2, Văn Đức T4, Văn Thị Q, Văn Thị Kim T1 chặt bỏ 06 cây tràm ở vị trí ký hiệu là chấm tròn thứ hai đến chấm tròn thứ bảy trên bản đồ hiện trạng sử dụng thửa đất để trả lại mặt bằng đất cho hộ ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T.
(Kèm theo Bản đồ hiện trạng sử dụng thửa đất ký ngày 28/6/2023 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh L2 - Chi nhánh huyện H).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của đương sự.
Nội dung kháng cáo của các đương sự:
Ngày 31/8/2023, bị đơn bà Văn Thị V kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.
Ngày 07/10/2023 bị đơn kháng cáo bổ sung, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm hoặc tạm đình chỉ để đợi kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền hoặc Toà án xem xét GCNQSDĐ cấp cho ông Văn Viết A, căn cứ điểm d khoản 1 Điều 214 BLTTDS.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Q phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Tòa án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật TTDS; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Văn Thị V. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện H.
Về án phí: Bà Văn Thi V1 phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ tranh chấp.
Ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu Toà án buộc bà Văn Thị V chặt bỏ cây trồng trên đất để trả lại 56m2 đất lấn chiếm cho ông A, bà T, do đó Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” là đúng quy định tại khoản 9 Điều 26 BLTTDS.
[2]. Về tính hợp pháp của kháng cáo.
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án, ngày 31/8/2023 và ngày 07/10/2023 bị đơn bà Văn Thị V kháng cáo. Như vậy, kháng cáo của bị đơn trong hạn luật định, phù hợp với quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý để giải quyết theo trình tự phúc thẩm đối với vụ án.
[3]. Xét kháng cáo của bị đơn.
[3.1]. Bị đơn kháng cáo cho rằng Toà án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng đối với buổi công khai chứng cứ, không đảm bảo về đối tượng và thành phần.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Toà án cấp sơ thẩm tổ chức 02 phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào các ngày 05/7/2023 và 21/7/2023. Cả 02 phiên họp đều vắng mặt nguyên đơn, bị đơn nhưng những người đại diện theo ủy quyền của đương sự đều có mặt. Việc tổ chức phiên họp thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 208, 209, 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà Văn Thị Q và Văn Thị Kim T1 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Văn Thị V có mặt tại 02 phiên họp và đồng ý với kết quả phiên họp. Do đó, kháng cáo này của bị đơn là không có cơ sở.
[3. 2]. Bị đơn kháng cáo cho rằng Toà án cấp sơ thẩm không xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn về việc xem xét hủy GCNQSDĐ số AI 189284 cấp cho ông Văn Viết A, bà Nguyễn Thị T là vi phạm tố tụng.
Tại đơn phản tố ngày 11/7/2023, bị đơn bà Văn Thị V yêu cầu Toà án giải quyết: “56m2 đất có trong giấy chứng nhận QSDĐ số H04237 của ông Văn Viết A thuộc quyền sử dụng của gia đình chúng tôi. Vì chúng tôi đã sử dụng từ khi khai hoang và trồng cây lưu niên. Khi kê khai đo đạc đã nhầm lẫn đưa vào lô đất của Ông Văn Viết O”, yêu cầu Toà án sửa đổi GCNQSDĐ số H04237 của ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T.
Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với yêu cầu xem xét diện tích 56m2 thuộc quyền sử dụng của gia đình bà V: Đây là diện tích đất tranh chấp giữa nguyên đơn ông Văn Viết A, bà Nguyễn Thị T với bị đơn bà Văn Thị V, được Toà án xem xét khi giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên không phải là yêu cầu phản tố mà đây là ý kiến phản bác của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đối với yêu cầu xem xét GCNQSDĐ cấp cho ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T: Đây là ý kiến của đương sự trong vụ án, nhưng không phải là yêu cầu phản tố theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự và không được Toà án thụ lý theo trình tự tố tụng. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu xét thấy quyết định cá biệt trái pháp luật thì Toà án có quyền hủy theo Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không có quyền sửa đổi giấy CNQSDĐ đã cấp cho đương sự. Do đó, yêu cầu của bị đơn đề nghị Toà án xem xét hủy GCNQSDĐ cấp cho ông Văn Viết A, bà Nguyễn Thị T không phải là yêu cầu phản tố trong vụ án.
Ngoài đơn phản tố đề ngày 11/7/2023 thì hồ sơ vụ án không có đơn phản tố nào đề ngày 31/8/2023 như nội dung bị đơn trình bày trong đơn kháng cáo bổ sung ngày 07/10/2023.
Do đó, kháng cáo của bị đơn cho rằng Toà án sơ thẩm vi phạm tố tụng do không thụ lý yêu cầu phản tố là không có cơ sở.
[3.3]. Về nội dung.
- Nguồn gốc thửa đất số 213, tờ bản đồ số 11 cấp cho hộ ông Văn Viết A: Thửa đất này do ông Văn Viết o khai hoang, sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp và được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ vào ngày 11/02/1994. Sau khi ông O chết năm 2002, ông Văn Viết A được thừa kế 4.393 m2 đất, trong đó có 50m2 đất ở và 4.343m2 đất trồng cây hằng năm khác. Ông Văn Viết A kê khai xin cấp GCNQSDĐ theo đúng diện tích, vị trí đất được thừa kế. Ngày 11/01/2006, UBND huyện H cấp GCNQSĐ số AI 189284 cho hộ Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T tại thửa đất số 213, tờ bản đồ số 11 theo hồ sơ phân chia thừa kế và hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất, vị trí thửa đất được xác định theo tọa độ cụ thể.
- Nguồn gốc thửa đất số 524, tờ bản đồ số 11 cấp cho bà Văn Thị V: Thửa đất này do ông Văn Đức L khai hoang, sử dụng ổn định, không có tranh chấp và được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ vào ngày 11/02/1994, cấp đổi GCNQSDĐ năm 2006 sau khi đo đạc, xác định tọa độ cụ thể. Năm 2016, ông L và bà P tách thửa đất thành nhiều mảnh để tặng cho các con. Bà Văn Thị V được tặng cho diện tích đất là 425m2, loại đất trồng cây lâu năm. Ngày 28/6/2016, bà Văn Thị V được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ số CĐ 500780, thửa đất số 524, tờ bản đồ số 11 với diện tích sử dụng là 425m2, trong đó đất ở 100m2, đất trồng cây lâu năm là 325m2, vị trí thửa đất được xác định cụ thể bằng tọa độ, liền kề với thửa đất của hộ ông Văn Viết A.
Quá trình sử dụng đất, hộ ông Văn Viết O và hộ ông Văn Đức L không có tranh chấp. Ông Văn Đức A1 và bà Văn Thị V là những người được thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất của ông O, ông L và được cấp GCNQSDĐ theo đúng diện tích được thừa kế, tặng cho. Theo hồ sơ chuyển mục đích sử dụng đất của bà Văn Thị V đối với thửa đất số 524, tờ bản đồ 11: Bản đồ thửa đất ngày 22/6/2016 (BL 97) thể hiện diện tích 425m2 mà bà V được cấp GCNQSDĐ có cạnh phía Đông giáp đất ông Văn Viết A (có toạ độ cụ thể theo GCNQSDĐ được cấp), và tại biên bản kiểm tra thực địa ngày 07/6/2016, bà V ký xác nhận tình trạng đất không có tranh chấp. Như vậy, bà V đã thừa nhận ranh giới sử dụng đất giữa mình và ông Văn Viết A theo GCNQSDĐ đã cấp cho cả hai bên.
Ngoài ra, theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2023 của Toà án nhân dân huyện H thì phần diện tích 56m2 đất đang tranh chấp nằm hoàn toàn trong thửa đất số 213, tờ bản đồ số 11 mà ông A, bà T5 đã được cấp GCNQSDĐ năm 2006. Diện tích ông A sử dụng còn thiếu 56m2 so với diện tích được cấp GCNQSDĐ. Còn đối với bà V, ngoài phần diện tích 425m2 được cấp GCNQSDĐ do được tặng cho còn đang sử dụng thêm phần diện tích 56m2. Do đó, có cơ sở xác định bà V sử dụng đất đã lấn chiếm sang phần đất của hộ ông A, bà T nên Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở.
[4]. Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập, xác minh, đánh giá chứng cứ theo đúng trình tự quy định của pháp luật. Bản án sơ thẩm đã đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, cần chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Văn Thị V, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của TAND huyện H.
[5]. Về án phí, chi phí tố tụng:
- Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn bà Văn Thị V phải chịu án chịu án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm theo quy định.
- Chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ chi phí hết 4.600.000đồng, nguyên đơn đã nộp đủ. Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn bà Văn Thị V và những người thừa kế về quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm hoàn trả lại cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Văn Thị V, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 24/8/2023 của TAND huyện H.
2. Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 2 Điều 148, Điều 271, 273 BLDS; Điều 166, 175 Bộ luật dân sự 2015; Điều 166, 170, 203 Luật đất đai 2013; khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T.
- Buộc bà Văn Thị V phải trả lại 56m2 đất là một phần của thửa đất số 213, tờ bản đồ số 11, tại thôn P, xã H, đã được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 189284 ngày 19/12/2006 cho hộ ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T. Vị trí phần đất 56m2 này được xác định bởi các điểm tọa độ 2; 3; 16; 15 theo bản đồ hiện trạng sử dụng thửa đất được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh L2 - Chi nhánh huyện H ký ngày 28/6/2023, cụ thể:
Điểm tọa độ 2: X = 1849585.560; Y = 600618.160 Điểm tọa độ 3: X = 1849585.610; Y = 600619.550 Điểm tọa độ 16: X = 1849542.620; Y = 600622.000 Điểm tọa độ 15: X = 1849542.740; Y = 600620.760 - Buộc bà Văn Thị V và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Văn Đức L là các ông, bà Trần Thị P, Văn Đức T3, Văn Đức H1, Văn Đức Đ, Văn Đức H2, Văn Đức T4, Văn Thị Q, Văn Thị Kim T1 chặt bỏ 06 cây tràm ở vị trí ký hiệu là chấm tròn thứ hai đến chấm tròn thứ bảy (tính từ đường giao thông vào) trên bản đồ hiện trạng sử dụng thửa đất để trả lại mặt bằng đất cho hộ ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T.
(theo Bản đồ hiện trạng sử dụng thửa đất ký ngày 28/6/2023 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh L2 - Chi nhánh huyện H).
3. Về án phí và chi phí tố tụng.
- Án phí sơ thẩm:
+ Bà Văn Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
+ Trả lại cho ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số CC/2021/0000304 ngày 10/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q.
- Án phí phúc thẩm: Bà Văn Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà V đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số CC/2021/0000401 ngày 08/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q (bà V đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm).
- Chi phí tố tụng: Bà Văn Thị V và các ông, bà Trần Thị P, Văn Đức T3, Văn Đức H1, Văn Đức Đ, Văn Đức H2, Văn Đức T4, Văn Thị Q, Văn Thị Kim T1 có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Văn Viết A và bà Nguyễn Thị T số tiền 4.600.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
4. Những phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 08/12/2023.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 66/2023/DS-PT
Số hiệu: | 66/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về