Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 57/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 57/2023/DS-PT NGÀY 16/06/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 16 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 24/2023/TLPT-DS ngày 31 tháng 3 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 13/02/2023 của Toà án nhân dân huyện H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 70/2023/QĐPT-DS ngày 08 tháng 5 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 91/2023/QĐ-PT ngày 26 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Huỳnh Kim H, sinh năm 1965. Có mặt.

Bị đơn: Ông Lê Thanh S, sinh năm 1972. Có mặt. Đồng trú tại: khu phố D, thị trấn P, huyện P, Phú Yên.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Hải L – Luật sư, địa chỉ: đường N, phường N, thành phố T, Phú Yên. Có mặt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà NLQ1, sinh năm 1974; Trú tại: khu phố D, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

2. Bà NLQ2, sinh năm 1971; Trú tại: thôn M, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Bà NLQ3, sinh năm 1970; Trú tại: khu phố D, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt. Người đại diện theo ủy quyền của bà NLQ3: Ông Huỳnh Kim H. Có mặt.

4. Ông NLQ4, sinh năm 1974; Trú tại: khu phố D, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

Do có kháng cáo của bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Huỳnh Kim H trình bày:

Hộ gia đình cụ Huỳnh Bá A (cha ông H) được Nhà nước cân đối, giao một số diện tích đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP và được UBND thị xã Tuy Hòa (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số G700518 ngày 10/12/1997 đứng tên Huỳnh Bá A, gồm: Thửa 12 tờ bản đồ 370B, Thửa 743 tờ bản đồ 344D, Thửa 216 tờ bản đồ 370B, Thửa 172 tờ bản đồ 370B, Thửa 735 tờ bản đồ 346D, Thửa 736 tờ bản đồ 346D và Thửa 723 tờ bản đồ 322D. Tại thời điểm giao đất, hộ gia đình có 05 nhân khẩu gồm: Ông Huỳnh Bá A, bà Lê Thị C (mẹ ông H), ông Lê Thanh S (con rể), bà NLQ1 (vợ ông S) và cháu Lê Thanh T (con ông S, bà NLQ1).

Năm 2002, UBND huyện H đã thu hồi 02 thửa đất: Thửa 216 tờ bản đồ 370B diện tích 380m2 và Thửa 172 tờ bản đồ 370B diện tích 300m2. Đến ngày 29/10/2004, UBND huyện H ban hành Quyết định số 5960/QĐ-UB thu hồi Thửa 735 tờ bản đồ 346D diện tích 384m2 và Thửa 723 tờ bản đồ 322D diện tích 1.490m2 giao cho hộ ông S và ngày 29/10/2004 UBND huyện H cấp GCNQSDĐ số Đ352177 đứng tên hộ ông Lê Thanh S.

Ngày 17/8/2020, Huỳnh Kim H, NLQ3, NLQ2 và NLQ1 đã lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của cha mẹ để lại (được UBND thị trấn P, huyện P chứng thực ngày 17/8/2020). Theo đó, các anh chị em thống nhất giao phần đất còn lại của cha mẹ cho ông H được trọn quyền sử dụng và định đoạt, cụ thể gồm: Thửa 12 tờ bản đồ 370B diện tích 375m2, Thửa 743 tờ bản đồ 344D diện tích 160m2 và Thửa 736 tờ bản đồ 346D diện tích 700m2.

Hiện nay, để thực hiện dự án, UBND huyện thu hồi Thửa 12 tờ bản đồ 370B diện tích 375m2 và Thửa 743 tờ bản đồ 344D diện tích 160m2 (đã được thỏa thuận cho ông H được trọn quyền sử dụng và định đoạt) nhưng ông Lê Thanh S cho rằng các thửa đất này thuộc quyền sử dụng của ông nên đã ngăn cản không cho ông H nhận tiền bồi thường. Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận cho ông được quyền sử dụng Thửa 12 và Thửa 743 để ông H được quyền nhận tiền bồi thường.

Theo các lời khai có tại hồ sơ và tại phiên tòa ông Lê Thanh S trình bày:

Năm 1992, ông S kết hôn với bà NLQ1 nên cha vợ là ông Huỳnh Bá A đã cho vợ chồng Sang canh tác diện tích đất 535m2 tại khu phố D, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên. Khi Nhà nước cân đối giao đất theo Nghị định 64/CP thì diện tích đất 535m2 này được cân đối giao cho hộ ông Huỳnh Bá A gồm có 05 nhân khẩu và cấp GCNQSDĐ đứng tên ông Huỳnh Bá A. Tuy nhiên, vợ chồng ông S, bà NLQ1 vẫn canh tác diện tích đất 535m2 từ năm 1992 cho đến khi Nhà nước thu hồi đất, thực hiện dự án hiện nay.

Ngoài ra, ngày 29/10/2004 ông S được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ số Đ352177 đứng tên hộ ông Lê Thanh S: Thửa 735 tờ bản đồ 346D diện tích 384m2 và Thửa 723 tờ bản đồ 322D diện tích 1.490m2. Tuy nhiên, thực tế hộ ông S chỉ trực tiếp canh tác thửa đất 723 tờ bản đồ 322D diện tích 1.490m2 và diện tích đất đang tranh chấp là 535m2, còn thửa 735 do ông Huỳnh Bá A cho ông NLQ4 thuê canh tác, chứ ông S không trực tiếp canh tác thửa đất 735. Như vậy, diện tích đất đang tranh chấp 535m2 thuộc quyền sử dụng của cha vợ ông là Huỳnh Bá A, còn người trực tiếp sản xuất trên diện tích đất này là vợ chồng ông S, bà NLQ1. Do đó, việc ông Huỳnh Kim H khởi kiện là không đúng, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NLQ1 trình bày: Thống nhất với trình bày của ông Lê Thanh S. Việc bà ký vào Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày 17/8/2020 là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Bà hoàn toàn không biết diện tích đất 535m2 tại khu phố D, thị trấn P, huyện P mà vợ chồng bà đang trực tiếp sử dụng là phần đất mà bà đã ký Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày 17/8/2020 giao cho anh Huỳnh Kim H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NLQ2 trình bày: Sau khi Nhà nước giao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho cha mẹ là Huỳnh Bá A, Lê Thị C sử dụng từ năm 1993 đến năm 2020 thì cả gia đình có thống nhất để thừa kế toàn bộ các diện tích đất nông nghiệp cho anh trai cúng giỗ nên các anh chị em đã ký Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày 17/8/2020 cho anh Huỳnh Kim H là đúng sự thật. Bà đề nghị Tòa án giải quyết cho anh Huỳnh Kim H được trọn quyền sử dụng, định đoạt toàn bộ đất nông nghiệp mà Nhà nước đã giao cho cha mẹ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NLQ3 trình bày: Bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Kim H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông NLQ4 trình bày: Năm 2006, ông Huỳnh Bá A có cho ông NLQ4 thuê diện tích đất nông nghiệp 380m2 tại thôn D, thị trấn P, huyện P cho đến nay và hằng năm đóng thuế cho chủ ruộng. Những năm đầu tiên vợ chồng bà NLQ1 ông S có lấy lúa về cho ông A, sau đó thì bà NLQ3 hoặc ông H lấy lúa về cho ông A. Ông NLQ4 biết vợ chồng bà NLQ1 ông S có canh tác phụ ba mẹ bà NLQ1 trên diện tích đất mà ông NLQ4 đang thuê trước khi ông Bốn G thuê rồi đến lượt ông. Khi đó ông G có nói nhường lại cho ông thuê vì gần nhà sợ vịt phá. Đối với phần đất đang tranh chấp thì ông NLQ4 biết vợ chồng bà NLQ1 ông S có canh tác một thời gian sau đó cho thuê qua nhiều người. Ông NLQ4 xin vắng mặt tại phiên tòa, không có ý kiến hay yêu cầu gì.

Tại Văn bản số 259/PTQĐ ngày 30/12/2022, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện H trình bày:

Hiện nay, Trung tâm phát triển quỹ đất đang thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thực dự án Tuyến đường tránh lũ, cứu hộ, cứu nạn trong đó có thu hồi thửa đất số 202 tờ bản đồ 23 diện tích thu hồi là 535m2 (theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất do Công ty TNHH Đo đạc Thiên Ý lập).

Ngày 17/6/2021, UBND huyện H đã ban hành Thông báo số 338/TB-UBND NLQ4/v thu hồi thửa đất số 202 tờ bản đồ 23 diện tích thu hồi là 535m2. Diện tích đất này UBND thị trấn H đã quy chủ cho hộ gia đình ông Huỳnh Kim H (theo Phiếu xác nhận điều chỉnh ngày 06/6/2022 của UBND thị trấn H).

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 13/02/2023 của Toà án nhân dân huyện H đã áp dụng Điều 26, 35, 147, 157, 158, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 8, 102, 117, 649, 651 và khoản 2 Điều 656 Bộ luật dân sự 2015; khoản 10 Điều 3, khoản 5 Điều 166, điểm c và d khoản 3 Điều 167, khoản 1 Điều 168, điểm d khoản 1 Điều 169 và Điều 203 Luật đất đai 2013.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Kim H.

Công nhận ông Huỳnh Kim H được quyền sử dụng diện tích đất nông nghiệp 535m2 tại thửa số 12 tờ bản đồ 370B và thửa 743 tờ bản đồ 344D theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G700518 ngày 10/12/1997 do Ủy ban nhân dân thị xã Tuy Hòa (cũ) cấp. (Theo bản đồ địa NLQ1h là thửa đất số 13 tờ bản đồ 370B và theo bản đồ đo đạc mới để thực hiện dự án Tuyến đường tránh lũ, cứu hộ, cứu nạn nối các huyện: Tây Hòa, H, thành phố T và Tuy An (giai đoạn 2) là thửa số 202 tờ bản đồ 23 tại khu phố D, thị trấn P, huyện P). Ông Huỳnh Kim H được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được nhận tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi diện tích đất nông nghiệp này.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự giữ nguyên quan điểm trình bày. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận diện tích đất đang tranh chấp là của bị đơn để bị đơn được nhận tiền bồi thường khi thu đất.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên tham gia phiên tòa phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã thực đầy đủ các quyền của mình theo quy định pháp luật. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy bản án sơ thẩm, để giải quyết sơ thẩm lại theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến trình bày của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo còn trong thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên đủ điều kiện để thụ lý, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: UBND huyện H đã thu hồi diện tích đất 400m2, (đo lại là 618 m2) thuộc thửa 202, tờ bản đồ số 23, theo Sổ mục kê là thửa 13 tờ bản đồ 370B tại khu phố D, thị trấn P, huyện P để thực hiện dự án. Khi chi trả tiền bồi thường thì phát sinh tranh chấp giữa ông Huỳnh Kim H với ông Lê Thanh S. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp quyền sử dụng đất” là chưa chính xác. Căn cứ khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 24 Điều 3, khoản 6 Điều 166, điểm a khoản 1 Điều 179 Luật đất đai năm 2013 xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”.

[3] Về đối tượng tranh chấp: Diện tích đất mà các bên tranh chấp nhằm hướng đến quyền được nhận tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là diện tích 400m2 (đo lại là 618 m2) thuộc thửa đất số 202, tờ bản đồ số 23, theo Sổ mục kê và Thông báo số 338/TB-UBND ngày 17/6/2021 của UBND huyện H, trước khi bị thu hồi là thửa đất số 13 tờ bản đồ 370B tại khu phố D, thị trấn P, huyện P, nhưng cấp sơ thẩm lại xác định tổng diện tích đất bị thu hồi có tranh chấp là 535 m2 thuộc 2 thửa số 12 (375 m2) tờ bản đồ 370B và thửa 743 (160m2) tờ bản đồ 344D là có sự nhầm lẫn, xác định đối tượng tranh chấp không đúng.

[4] Về nội dung:

[4.1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Lê Thanh S cho rằng diện tích đất đang bị thu hồi do vợ chồng ông S canh tác từ năm 1992 đến khi Nhà nước thu hồi đất nên ông S phải là người được nhận tiền bồi thường. Trong khi, nguyên đơn ông Huỳnh Kim H cho rằng diện tích đất 535m2 được cấp GCNQSDĐ đứng tên Huỳnh Bá A (cha ông H), ngày 17/8/2020 các đồng thừa kế đã ký Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế cho ông H nên ông H được nhận tiền bồi thường.

[4.2] Tại biên bản xác minh ngày 04/11/2022, UBND thị trấn H xác định hộ ông Huỳnh Bá A được cấp GCNQSDĐ một số thửa đất, trong đó có thửa 12 và 743 nhưng thực tế không trực tiếp sử dụng thửa đất số 12 và số 743 mà sử dụng thửa đất số 13. Còn thửa đất số 12 và số 743 do ông Dương C trực tiếp sử dụng, Nhà nước đã thu hồi, bồi thường cho ông Dương C, không có ai tranh chấp. Như vậy, thửa đất số 12, số 743 và số 13 thực chất là 03 thửa đất riêng biệt; thửa 12 và 743 được ghi nhận trên GCNQSDĐ số G700518 đứng tên Huỳnh Bá A đã được Nhà nước thu hồi, bồi thường cho ông Dương C. Còn thửa đất số 13 có diện tích 400m2 (đo lại là 618 m2), theo Sổ mục kê là đất sình, không có tên người sử dụng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ quy chủ cho ai hay thuộc Ủy ban nhân dân thị trấn H quản lý để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là Người có quyền và nghĩa vụ liên quan là có thiếu sót.

[4.3] Thửa đất số 13 không được ghi nhận trên GCNQSDĐ số G700518 đứng tên Huỳnh Bá A, cũng không được ghi nhận trên GCNQSDĐ số Đ352177 đứng tên hộ ông Lê Thanh S, nhưng thực tế vợ chồng ông S quản lý, sử dụng cho người khác thuê canh tác. Nên cần thu thập hồ sơ địa chính được lập qua các thời kỳ đối với thửa đất số 13 để làm rõ nguồn gốc đất nhưng cấp sơ thẩm chưa thu thập. Ngoài ra, cần thu thập hồ sơ cấp GCNQSDĐ số G700518 đứng tên Huỳnh Bá A và hồ sơ cấp GCNQSDĐ hộ ông Dương C để làm rõ tại sao hộ ông A không canh tác thửa 12 và 743 mà ông Dương C canh tác, thửa 13 có cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Dương C hay không.

[4.4] Tại Phiếu xác nhận điều chỉnh ngày 06/6/2022 của UBND thị trấn H đã điều chỉnh đối tượng sử dụng đất từ hộ ông Lê Thanh S thành hộ ông Huỳnh Kim H với lý do có sự nhầm lẫn trong quá trình kê khai từ thửa đất số13 thành thửa đất số 12 và số 743, nên khi cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Huỳnh Bá A ghi thửa 12 và 743 là không đúng. Ngày 17/8/2020, các đồng thừa kế đã lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế thửa 12 và 743 cho ông Huỳnh Kim H. Cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ sự nhầm lẫn này là do cơ quan nhà nước cấp GCNQSDĐ hay do các đương sự sử dụng đất không đúng vị trí được giao.

[4.5] UBND thị trấn H xác định có sự nhầm lẫn trong quá trình kê khai, đăng ký cấp GCNQSDĐ không đúng thửa đất cho hộ ông A, do đó Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế UBND thị trấn H chứng thực ngày 17/8/2020 đối với 02 thửa đất số 12 và số 743 cũng không đúng. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế cho ông H được quyền sử dụng các thửa đất số 12, số 743 và số 736 chứ không phải thửa đất số 13. Nhưng do cấp sơ thẩm xác định không đúng đối tượng và diện tích đất tranh chấp như đã phân tích ở mục [3], cho rằng các đồng thừa kế đã chuyển giao 535m2 đất tại thửa số 13 cho ông H nên ông H được quyền sử dụng và được nhận tiền bồi thường là không có cơ sở.

[4.6] Tại Thông báo số 338/TB-UBND ngày 17/6/2021 của UBND huyện H xác định diện tích đất bị thu hồi là 400m2 (đo lại là 618 m2) thuộc thửa đất số 13 tờ bản đồ 370B đứng tên người sử dụng là ông Lê Thanh S nhưng UBND thị trấn H tự ban hành Phiếu xác nhận điều chỉnh đối tượng sử dụng đất sang tên ông ông Huỳnh Kim H vào ngày 06/6/2022 là không đúng thẩm quyền. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thuộc thẩm quyền của UBND huyện H nhưng do cấp sơ thẩm xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp như đã phân tích ở mục [2] nên không đưa UBND thị trấn H và UBND huyện H vào tham gia tố tụng với tư cách là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.

Từ các phân tích thiếu sót và sai lầm của cấp sơ thẩm trên đây, Hội đồng xét xử nhận thấy cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.

[5] Về án phí phúc thẩm: Người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2023/DS-ST ngày 13/02/2023 của Toà án nhân dân huyện H.

Giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân huyện H thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

Hoàn trả cho ông Lê Thanh S 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 9345 ngày 28/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 57/2023/DS-PT

Số hiệu:57/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:16/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về