Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 55/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 55/2023/DS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 19 tháng 9 năm 2023,tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 63/2020/TLST-DS ngày 27.8.2020 về việc: “Tranh chấp QSD đất, hủy giấy chứng nhận QSD đất”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2023/QĐ-ST ngày 25 tháng 7 năm 2023, Thông báo về việc mở phiên tòa số 83/2023/TB-DS ngày 28 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Ông Huỳnh Thanh B, sinh năm 1960; Địa chỉ: Thôn L, xã H, thị xã Đ, tỉnh P. Có mặt

1.2. Bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1962, chết ngày 28/3/2023.

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà T gồm có chồng Văn Phú T1, sinh năm 1964, các con: Văn Phú Q, sinh năm 1982; Văn Thị H, sinh năm 1992; Văn Phú T2, sinh năm 1996; cùng địa chỉ: khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P; Văn Phú T3, sinh năm 1990 đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P.

Ông T1 có mặt, những người khác vắng mặt.

1.3. Bà Huỳnh Thị L, sinh năm 1966; Địa chỉ: Thôn T, xã H, thị xã Đ, tỉnh P. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phạm Hồng P, Công ty L6; Địa chỉ: G N, Phường G, Thành phố T, tỉnh P. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh L1, sinh năm 1964; Địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Vắng mặt.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Phạm Thị Y, sinh năm 1934 (chết ngày 16/11/2021); Địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng của bà Y gồm Huỳnh Thanh B, Huỳnh Thị L, Huỳnh Thị T (đồng thời là nguyên đơn), Huỳnh Thanh L1 (đồng thời là bị đơn).

3.2. Vợ chồng bà Võ Thị L2, sinh năm 1986 và ông Lê Văn T4, sinh năm 1984; Địa chỉ: Khu phố B, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Bà L2 có mặt, ông T4 vắng mặt.

3.3. Vợ chồng ông Văn Phú T3, sinh năm 1990 và bà Lê Thị Bích L3, sinh năm 1991; Địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Ông T3 vắng mặt, bà L3 có mặt.

3.4. Ủy ban nhân dân phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Vắng mặt.

3.5. Ủy ban nhân dân thị xã Đ, tỉnh P. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hp pháp của nguyên đơn trình bày:

Cha mẹ của nguyên đơn là ông Huỳnh Quốc T5 (chết năm 2005), bà Phạm Thị Y (chết năm 2021) có 05 người con là Huỳnh Thanh B, Huỳnh Thị T (chết năm 2023 có chồng Văn Phú T1, các con Văn Phú Quốc, Văn Phú T3, Văn Thị H, Văn Phú T2), Huỳnh Thị L, Huỳnh Thanh L1, Huỳnh Thị P1 (chết năm 1988 không có chồng con). Cha mẹ có tạo lập được thửa đất khoảng 1.300m2 tại khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P có tứ cận: Đông giáp đường sắt, Nam giáp thửa đất của ông Lê Văn R, Tây giáp thửa đất của ông Trần Thanh V, Bắc giáp đường đi. Nguồn gốc đất do cha mẹ mua từ ông Lê Thanh C.

Ngày 19/7/1987, cha mẹ lập di chúc chia thửa đất làm 5 phần cho 5 người con theo hướng Bắc - Nam, có chữ ký của cha mẹ và giao cho mỗi người một bản. Năm 1988, bà P1 chết. Khoảng năm 1988 - 1989, ông B ra đào giếng trồng cây nhưng sau đó đi làm ăn xa nên cây ông L1 chặt hết. Khoảng năm 1990 - 1991, ông L1 xây dựng nhà và ở đến nay.

Ngày 20/11/2004, cha mẹ lập Bản đồng ưng chia đất, có người làm chứng là ông Huỳnh T6 là trưởng họ, theo đó cha mẹ chia lại đất theo hướng Đông - Tây để ai cũng có đất giáp đường sắt cho công bằng thành 05 thửa (theo thứ tự từ Bắc vô N). Cụ thể: Ông Huỳnh Thanh B: 161m2 (7m x 23m); Ông Huỳnh Thanh L1: 299m2 (13m x 23m); Bà Huỳnh Thị T: 161m2 (7m x 23m); Bà Huỳnh Thị L: 161m2 (7m x 23m); Bà Huỳnh Thị P1: 161m2 (7m x 23m). Bản đồng ưng chia đất này có chữ ký xác nhận của cụ T5, cụ Y và tất cả các người con, bao gồm cả bị đơn (ông L1). Sau khi được chia đất, bà T đã về xây móng nhà trên đất, đến năm 2017 cho vợ chồng con trai là Văn Phú T3, Lê Thị Bích L3 xây dựng nhà ở ổn định cho đến nay.

Đối với bà P1 đã chết vẫn được gia đình chia đất nhưng cha mẹ vẫn quản lý mục đích sau này ai thờ cúng bà P1 thì nhận phần này. Tuy nhiên, khi còn sống mẹ Y làm Giấy chuyển nhượng cho cháu ngoại Võ Thị L2 (con của bà L), có chữ ký của mẹ, ông B, bà L, ông T1 (chồng bà T) với giá 70.000.000đ để lấy tiền xây mả cho bà P1 và sửa nhà mẹ đang ở.

Khi các nguyên đơn yêu cầu ông L1 chia đất theo đúng nguyện vọng cha mẹ tại Bản đồng ưng chia đất năm 2004 thì ông L1 nói để làm giấy tờ đứng tên ông rồi ông chia lô cho các anh em nhưng sau đó ông không thực hiện như lời hứa. Khi các nguyên đơn khiếu nại đến UBND phường H mới biết ông L1 đã được UBND huyện (nay là thị xã) Đông Hòa cấp Giấy CNQSDĐ số CI 042966 ngày 05/02/2018 đối với thửa đất số 10, tờ bản đồ số 65 (đo đạc năm 2009), diện tích 1.305,2m2. Khi còn sống mẹ Y đã đồng ý cùng với các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông L1 trả lại đất cha mẹ đã chia cho các anh chị em, lúc đó tòa hòa giải ông L1 đã đồng ý phân chia theo ý của cha mẹ, chỉ dẫn cho Tòa án tiến hành đo vẽ phân chia đất cho từng anh chị em theo hiện trạng, nhưng sau này trong quá trình Tòa giải quyết vụ án ông L1 lại đổi ý không chịu chia đất.

Nay các nguyên đơn yêu cầu Tòa công nhận quyền sử dụng đất cho các anh chị em theo như ý chí của cha mẹ khi còn sống và thực tế sử dụng đất theo Bản đồng ưng chia đất năm 2004 làm 5 thửa có diện tích như cha mẹ đã chia theo như Mảnh trích đo hiện trạng, cụ thể, tính từ Bắc vào N như sau:

Ông Huỳnh Thanh B: Thửa đất số 628, diện tích 197,8m2.

Ông Huỳnh Thanh L1: Thửa đất số 629, diện tích 448,6m2. Trên đất hiện nay có ngôi nhà, công trình phụ và một số cây trồng là tài sản của ông L1.

Phần đất chia cho bà Huỳnh Thị T thì tất cả những người thừa kế của bà T đều thống nhất công nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Văn Phú T3, bà Lê Thị Bích L3: Thửa đất số 630, diện tích 193,1m2. Trên đất có ngôi nhà của vợ chồng ông T3, bà L3 xây dựng năm 2017.

Bà Huỳnh Thị L: Thửa đất số 631, diện tích 180,5m2.

Phần đất chia cho bà Huỳnh Thị P1 thì tất cả các nguyên đơn thống nhất công nhận cho bà Võ Thị L2: Thửa đất số 632, diện tích 176,6m2.

Đối với ý kiến của ông L1 về thửa đất mẹ Y được nhận giải tỏa đền bù năm 2017 là thửa đất làm đường quốc lộ 29 không giáp đường sắt, không phải thửa đất tranh chấp nêu trên.

Các nguyên đơn yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD đất số CI 042966 do UBND huyện (nay là thị xã) Đông Hòa cấp ngày 05/02/2018 cho ông Huỳnh Thanh L1 đối với thửa đất số 10, tờ bản đồ số 65 (đo đạc năm 2009), diện tích 1.305,2m2 để tất cả các anh chị em được quyền liên hệ với cơ quan chức năng đăng ký quyền sử dụng đất với diện tích được công nhận nêu trên.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Huỳnh Thanh L1 trình bày:

Về thông tin cha mẹ và anh em tôi thống nhất. Tuy nhiên thửa đất nguyên đơn yêu cầu là thửa đất do tôi khai hoang sau giải phóng chứ không phải đất của cha mẹ tôi. Việc tôi khai hoang làng xóm chính quyền đều biết, mặc dù tôi không có làm giấy tờ gì vì thời điểm đó sau khi giải phóng đất bỏ hoang hóa nhiều, ai làm được thì làm. Đến năm 2004 tôi được nhà nước cấp GCNQSDĐ, đến năm 2017 tôi được cấp đổi GCNQSDĐ như trên. Tôi có biết và có ký Bản đồng ưng chia đất năm 2004 nhưng đó là ký chia thửa đất đã được nhà nước bồi thường giải tỏa cho mẹ tôi sau này chứ không phải mảnh đất giáp đường ray xe lửa tôi đang sử dụng. Giếng mà ông B trình bày là do tôi đào, của tôi chứ không phải của ông B. Tôi được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, lâu dài không ai tranh chấp nên tôi khẳng định đất thuộc quyền sử dụng của tôi. Tuy nhiên vì tình nghĩa anh em trong gia đình, nay tôi đồng ý theo ý kiến anh em. Tôi được chia 2 lô, còn lại chia cho các anh em mỗi người một lô, yêu cầu Tòa án tiến hành đo vẽ, định giá đóng mốc phân chia ranh giới của mỗi người và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của chúng tôi.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

Bà Võ Thị L2 trình bày: thống nhất phần trình bày của nguyên đơn. Tôi nhận chuyển nhượng từ bà ngoại Y và đã đưa đủ tiền. Nay tôi yêu cầu Tòa công nhận phần đất bà P1 được bà Y chuyển nhượng cho tôi L2 và chồng tôi ông Lê Văn T4. Ông T4 thống nhất trình bày của bà L2 (đơn ngày 22/8/2023).

Ông Văn Phú T3 trình bày: thống nhất phần trình bày của nguyên đơn. Vợ chồng tôi được mẹ là bà T cho đất và cất nhà vào năm 2017, nay chúng tôi yêu cầu Tòa án công nhận phần đất chia cho mẹ tôi mà vợ chồng tôi đang có nhà ở cho vợ chồng tôi T3 - Lê.

UBND thị xã Đ, tỉnh P: cung cấp hồ sơ cấp GCNQSD đất số CI 042966 ngày 05/02/2018 cho ông Huỳnh Thanh L1 kèm theo Công văn số 1037/UBND-TNMT ngày 19/3/2021.

UBND phường H, thị xã Đ, tỉnh P: cung cấp các tài liệu về nguồn gốc đất tranh chấp theo Biên bản xác minh ngày 21/7/2023.

Tòa án nhân dân tỉnh P đã tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận về việc giải quyết vụ án nhưng không thành.

Tại phiên tòa sơ tham:

Các đồng nguyên đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn vắng mặt không trình bày.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn, công nhận QSDĐ cho các nguyên đơn, bị đơn và người liên quan theo sự chỉ dẫn đo đạc của tất cả các đương sự thể hiện tại Mảnh trích đo tài sản gắn liền với đất số 39-2022 ngày 04/11/2022 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P thực hiện, Hủy GCNQDĐ số CI 042966 ngày 05/02/2018 cho ông Huỳnh Thanh L1. Về án phí DSST và chi phí tố tụng đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn ông Huỳnh Thanh L1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thị xã Đ, UBND phường H được triệu tập nhưng vắng mặt, căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Các đồng nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông Huỳnh Thanh L1 giao diện tích đất như biên bản đồng ưng chia đất ngày 20 tháng 11 năm 2004 tọa lạc tại khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD số CI 042966 ngày 05/02/2018 đối với thửa đất số 10,tờ bản đồ số 65 (đo đạc năm 2009), diện tích 1.305,2m2 cấp cho ông Huỳnh Thanh L1. HĐXX xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy GCNQSDĐ”, căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 32 của Luật tố tụng hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh P.

[3] Xét nguồn gốc đất tranh chấp: Thửa đất số 10, tờ bản đồ số 65 (đo đạc năm 2009), diện tích 1.305,2m2 tọa lạc tại khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh P có giới cận: Đông giáp đường sắt, Tây giáp đất ông Trần Thanh V, Nam giáp đất ông Lê Văn R, Bắc giáp đường đi, các nguyên đơn cho rằng đó là diện tích đất của cha mẹ: ông Huỳnh Quốc T5 (chết năm 2005) và bà Phạm Thị Y mua lại của ông Lê Thanh C. HĐXX xét thấy:

[4] Tại công văn số 1307/UBND-TNMT ngày 19.3.2021 của Ủy ban nhân dân thị xã Đ cung cấp hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất của ông Huỳnh Thanh L1, Biên bản xác minh ngày 21.7.2023 của Tòa án nhân dân tỉnh P tại UBND phường H xác định: Thửa đất số 10, tờ bản đồ 65 ( đo đạc năm 2009) diện tích 1302,5m2 có nguồn gốc: Theo bản đồ đo vẽ năm 1986 tại tờ bản đồ số 7 thể hiện thửa đất này nằm trong một phần của thửa số 16, diện tích đo bao 59.600m2(loại đất CDK) không thể hiện vị trí cụ thể trong thửa đất đo bao, không thể hiện tên chủ sử dụng đất; Theo bản đồ đo đạc năm 1995 là thửa số 711, tờ bản đồ 378C, diện tích 1220m2; Theo sổ mục kê năm 1998, quyển số 2, trang 58 và sổ địa chính lập năm 1998 tại quyển số 10 trang 43 đứng tên kê khai là ông Huuỳnh Thanh L4 bà Lê Thị P2, Thửa 711, diện tích 1220m2; Theo bản đồ đo đạc năm 2009 thì thửa đất số 10, tờ bản đồ 65 diện tích 1305,2m2 (loại đất ở nông thôn, LNK). Căn cứ quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 18/QĐ-TTLH ngày 18.9.2001 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Hòa (nay là thị xã Đ) thể hiện phần tài sản chung diện tích đất là của ông L4, không ai tranh chấp. Theo trình bày của các đương sự xác định ông Huỳnh Thanh L1 đã sử dụng đất xây dựng nhà ở ổn định từ khoảng năm 1990, trong thời gian sử dụng đất ông L1 đăng ký kê khai, không có ai tranh chấp và được UBND thị xã Đ cấp GCNQSDĐ số CI 042966 ngày 05/02/2018 đối với thửa đất số 10, tờ bản đồ số 65 (đo đạc năm 2009), diện tích 1.305,2m2 là đúng quy định tại Điều 18 Luật đất đai 1987, Điều 2 Luật đất đai 1993, Điều 26, 100, 101, 166, 170 Luật đất đai 2013.

[5] Tuy nhiên, khi ông Huỳnh Thanh L1 thực hiện đăng ký kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2017, bản thân ông L1 biết rõ về nguồn gốc đất của cha mẹ tạo lập đã chia cho các con nhưng đã không trung thực khi khai báo về nguồn gốc đất là do ông khai hoang là kê khai không đúng sự thật. Căn cứ bản đồ đo vẽ năm 1986 tại tờ bản đồ số 7 thể hiện thửa đất này nằm trong một phần của thửa số 16, diện tích đo bao 59.600m2 (loại đất CDK) không thể hiện vị trí cụ thể trong thửa đất đo bao, không thể hiện tên chủ sử dụng đất. Điều này phù hợp với xác nhận về nguồn gốc thửa đất này của vợ chồng cụ T5, cụ Y tạo lập của các nhân chứng ông Lê Thanh C, Phan Văn S, Trà Văn N, Huỳnh T6, Đặng T7, Lê Văn R1, trong đó ông Huỳnh T6, là trưởng tộc họ H1 khu phố Phước L5 có ký trong Bản đồng ưng chia đất và biết rõ việc chia đất cho các con theo di chúc chia đất cho con lập ngày 19/7/1987 do ông Huỳnh Quốc T5, bà Phạm Thị Y lập. Điều này được khẳng định lại một lần nữa tại Bản đồng ưng chia đất ngày 20/11/2004, có chữ ký xác nhận của cụ T5, cụ Y và tất cả các người con, bao gồm cả bị đơn (ông L1). Do đó, có căn cứ xác nhận nguồn gốc của thửa đất tranh chấp là của cụ T5 và cụ Y. Bản thân bị đơn ông L1, tại Biên bản hòa giải ngày 24/6/2020 ở UBND phường H cũng thừa nhận đất này là của cụ T5, cụ Y “khi tôi đi bộ đội về năm 1985 đến năm 1990 có vợ cha mẹ mới chỉ tôi ra ở vị trí đất này đ vợ chng tôi canh tác và xây dựng nhà ở từ năm 1990 ổn định cho đến nay và được Nhà nước cấp GCNQSDĐ”. Đồng thời tại Biên bản hòa giải ngày 05/5/2021, ông L1 trình bày “Tôi được chia 2 lô, còn lại chia cho các anh em mỗi người một lô, yêu cầu Tòa án tiến hành đo vẽ, định giá đóng mốc phân chia ranh giới của mi người và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của chúng tôi”, khi ký biên bản tự ghi “tôi tên L1 thống nht chia cho anh em nhưng không được đụng tới nhà tôi”. Mặt khác khi bà Huỳnh Thị T xây dựng móng nhà và đến năm 2017, cho vợ chồng con trai là anh Văn Phú T3, chị Lê Thị Bích Lê xây d nhà ở trên phần đất mà bà T được chia ở cho đến năm 2020 các bên tranh chấp thì ông L1 không có ý kiến tranh chấp hay ngăn cản gì.

[6] Do đó, HĐXX xét đủ cơ sở xác định thửa đất số 10, tờ bản đồ số 65, diện tích đo đạc thực tế 1.196,6m2 (giảm 108,6m2 được UBND phường H xác định là do quá trình sử dụng đất và do sai số đo đạc) theo Mảnh trích đo tài sản gắn liền với đất số 39-2022 ngày 04/11/2022 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P thực hiện, có nguồn gốc của cụ Huỳnh Quốc T5, Phạm Thị Y tạo lập, đã phân chia cho các con từ năm 1987 và được chia lại cụ thể tại Bản đồng ưng chia đất ngày 20/11/2004. Khi các nguyên đơn khởi kiện, cụ Y đã ủy quyền cho bà L giải quyết tranh chấp, ngày 16/11/2021 cụ Y chết không để lại di chúc nên Bản đồng ưng chia đất ngày 20/11/2004 là thể hiện ý chí cuối cùng của cụ T5, cụ Y tặng cho thửa đất trên cho các con, tuy hình thức của hợp đồng tặng cho không phù hợp quy định tại Điều 124 BLDS 2005 (Điều 119 BLDS 2015) nhưng nội dung đồng ưng chia đất phù hợp Điều 4, 722 BLDS 2005 (Điều 3, 457 BLDS 2015), được tất cả các con ký nhận phù hợp khoản 1 Điều 129 BLDS 2015. Do đó, việc UBND thị xã Đ cấp GCNQSDĐ cho ông Huỳnh Thanh L1 là không đúng về nguồn gốc đất. Căn cứ điểm d khoản 2, 3 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 quy định Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp: Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vì vậy, HĐXX chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 042966, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CH 01478 do UBND huyện (nay là thị xã) Đông Hòa cấp ngày 05/02/2018 cho ông Huỳnh Thanh L1.

[7] Tại phiên tòa, các nguyên đơn đều thống nhất phần chia cho bà Huỳnh Thị T thì công nhận cho vợ chồng ông Văn Phú T3, bà Lê Thị Bích L3; phần chia cho bà Huỳnh Thị P1 thì công nhận cho vợ chồng bà Võ Thị L2, ông Lê Văn T4 căn cứ vào Giấy chuyển nhượng ngày 03/3/2017 giữa cụ Phạm Thị Y và Võ Thị L2 (con của bà L), có chữ ký của cụ Y, ông B, bà L, ông T1 (chồng bà T). Xét thấy yêu cầu này của các nguyên đơn không trái pháp luật nên cần chấp nhận. Quá trình tòa án giải quyết, bị đơn ông L1 cũng đồng ý việc chia đất cho các anh chị em, nhưng yêu cầu được nhận phần nhiều hơn, các nguyên đơn cũng đồng ý, ngày 11/6/2021, các đương sự đã chỉ dẫn đo vẽ các phần chia được thể hiện tại Mảnh trích đo tài sản gắn liền với đất số 39-2022 ngày 04/11/2022 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P thực hiện, phù hợp với cách cụ T5, cụ Y chia theo Bản đồng ưng chia đất ngày 20/11/2004 và Biên bản định giá tài sản ngày 11/5/2022. Cụ thể, công nhận cho các đương sự được quyền sử dụng các diện tích đất tính từ Bắc vào N như sau:

[7.1] Ông Huỳnh Thanh B được quyền sử dụng: Thửa đất số 628, diện tích 197,8m2 (trong đó có 61m2 HLGT), trên đất có phần sân xi măng diện tích 29,6m2 x 160.000đ/m2 x 40% = làm tròn 1.895.000đ, chái tôn 11m2 x 610.000đ/m2 x 60% = 4.026.000đ, tường rào xây gạch cao 1,5m từ điểm 7-1: 8,02m + từ điểm 1-2: 14,44m = 22,46m x 361.500đ/m x 60% = làm tròn 4.872.000đ, cổng sắt cao 1,8m rộng 2,15m = làm tròn 2.951.000đ là tài sản của ông L1 nên ông B thanh toán lại cho ông L1 số tiền 13.744.000đ (Mười ba triệu bảy trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).

[7.2] Ông Huỳnh Thanh L1 được quyền sử dụng: Thửa đất số 629, diện tích 448,6m2 (trong đó có 139,1m2 HLGT), trên đất có ngôi nhà, công trình phụ và một số cây trồng là tài sản của ông L1.

[7.3] Vợ chồng ông Văn Phú T3, bà Lê Thị Bích L3 được quyền sử dụng: Thửa đất số 630, diện tích 193,1m2 (trong đó có 58,1m2 HLGT). Trên đất có ngôi nhà của vợ chồng ông T3, bà L3 xây dựng năm 2017.

[7.4] Bà Huỳnh Thị L được quyền sử dụng: Thửa đất số 631, diện tích 180,5m2 (trong đó có 57,1m2 HLGT).

[7.5] Vợ chồng bà Võ Thị L2, ông Lê Văn T4 được quyền sử dụng: Thửa đất số 632, diện tích 176,6m2 (trong đó có 52m2 HLGT).

[8] Buộc ông Huỳnh Thanh L1 phải giao lại quyền sử dụng đất cho các đương sự được sử dụng theo sự công nhận nêu trên. Các ông, bà Huỳnh Thanh B, Huỳnh Thanh L1, Huỳnh Thị L, vợ chồng ông Văn Phú T3, bà Lê Thị Bích L3, vợ chồng bà Võ Thị L2, ông Lê Văn T4 được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các trình tự, thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất được quyền sử dụng nêu trên theo quy định của pháp luật đất đai.

[9] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn bà Huỳnh Thị L tự nguyện chịu 15.000.000đ (đã nộp tạm ứng đủ).

[10] Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 34, 147, 157, 165, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 32 của Luật tố tụng hành chính;

Áp dụng các Điều 4, 124, 722 BLDS 2005 (Điều 3, 119, 129, 457 BLDS 2015); điểm d khoản 2, 3 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn Huỳnh Thanh B, Huỳnh Thị T (do những người kế thừa quyền, nghĩa vụ: Văn Phú T1, Văn Phú T2, Văn Phú T3, Văn Thị H), Huỳnh Thị L:

1. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 042966, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CH 01478 do UBND huyện (nay là thị xã) Đông Hòa cấp ngày 05/02/2018 cho ông Huỳnh Thanh L1 đối với thửa đất số 10, tờ bản đồ số 65 (đo đạc năm 2009), diện tích 1.305,2m2.

2. Công nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 10, tờ bản đồ số 65, diện tích đo đạc thực tế 1.196,6m2 được tách ra thành 05 thửa theo Mảnh trích đo tài sản gắn liền với đất số 39-2022 ngày 04/11/2022 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P thực hiện, cho các đương sự, cụ thể như sau:

2.1. Ông Huỳnh Thanh B được quyền sử dụng: Thửa đất số 628, diện tích 197,8m2 (trong đó có 61m2 HLGT), trên đất có phần sân xi măng diện tích 29,6m2, chái tôn 11m2, tường rào xây gạch cao 1,5m từ điểm 7-1: 8,02m + từ điểm 1-2: 14,44m = 22,46m, cổng sắt cao 1,8m rộng 2,15m là tài sản của ông L1 nên ông B thanh toán lại cho ông L1 số tiền 13.744.000đ (Mười ba triệu bảy trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).

2.2. Ông Huỳnh Thanh L1 được quyền sử dụng: Thửa đất số 629, diện tích 448,6m2 (trong đó có 139,1m2 HLGT), trên đất có ngôi nhà, công trình phụ và một số cây trồng là tài sản của ông L1.

2.3. Vợ chồng ông Văn Phú T3, bà Lê Thị Bích L3 được quyền sử dụng: Thửa đất số 630, diện tích 193,1m2 (trong đó có 58,1m2 HLGT). Trên đất có ngôi nhà của vợ chồng ông T3, bà L3 xây dựng năm 2017.

2.4. Bà Huỳnh Thị L được quyền sử dụng: Thửa đất số 631, diện tích 180,5m2 (trong đó có 57,1m2 HLGT).

2.5. Vợ chồng bà Vồ Thị L2, ông Lê Văn T4 được quyền sử dụng: Thửa đất số 632, diện tích 176,6m2 (trong đó có 52m2 HLGT).

3. Buộc ông Huỳnh Thanh L1 phải giao lại quyền sử dụng đất cho các đương sự được sử dụng theo sự công nhận nêu trên. Các ông, bà Huỳnh Thanh B, Huỳnh Thanh L1, Huỳnh Thị L, vợ chồng ông Văn Phú T3, bà Lê Thị Bích L3, vợ chồng bà Võ Thị L2, ông Lê Văn T4 được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các trình tự, thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất được quyền sử dụng nêu trên theo quy định của pháp luật đất đai.

4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn bà Huỳnh Thị L tự nguyện chịu 15.000.000 đồng (đã nộp đủ).

5. Về án phí: Bị đơn ông Huỳnh Thanh L1 phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Huỳnh Thanh B phải chịu 687.000đ (Sáu trăm tám mươi bảy nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006656 ngày 27/8/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh P nên còn phải nộp 387.000đ (Ba trăm tám mươi bảy nghìn đồng).

H2 lại cho người thừa kế của bà Huỳnh Thị T (Văn Phú T1, Văn Phú Q, Văn Phú T2, Văn Phú T3, Văn Thị H) số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006657 ngày 27/8/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh P.

H2 lại cho bà Huỳnh Thị L số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006658 ngày 27/8/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh P.

H2 lại cho bà Võ Thị L2, ông Lê Văn T4 số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000478 ngày 30/6/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh P.

H2 lại cho ông Văn Phú T3, bà Lê Thị Bích L3 số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000477 ngày 30/6/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh P.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 55/2023/DS-ST

Số hiệu:55/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về