Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 525/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 525/2023/DS-PT NGÀY 01/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 01 tháng 8 năm 2023, tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 340/2022/TLPT-DS ngày 10/8/2022 về việc “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1341/2023/QĐ-PT ngày 24 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1972 (có mặt). Địa chỉ: Khóm E, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh. 2. Bị đơn:

2.1 Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1926 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh. 2.2 Bà Diệp Thị H, sinh năm 1954 (vắng mặt) 2.3 Bà Nguyễn Thị A N, sinh năm 1981 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Người đại diện của bà Diệp Thị H: Nguyễn Thị Thu B, sinh 1978 địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Ủy ban nhân dân huyện C (vắng mặt);

Trụ sở: Khóm C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh. 3.2 Văn phòng C (vắng mặt);

Trụ sở: Số B, đường L, Phường A, thành phố T, tỉnh Trà Vinh. 3.3 Ông Trần Minh K, sinh năm 1954 (có mặt) Địa chỉ: Khóm E, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh. 3.4 Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1965 (vắng mặt);

3.5 Ông Nguyễn Anh D, sinh năm 1960 (vắng mặt);

3.6 Bà Nguyễn Thị Thu B, sinh năm 1978 (vắng mặt);

3.7 Ông Trần Văn N1, sinh năm 1971 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Người đại diện hợp pháp của ông Trần Văn N1: Bà Nguyễn Thị Thu B. 3.8 Ông Nguyễn Thanh D1, sinh năm 1983 (vắng mặt);

Nơi ĐKHKTT: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam B1; Địa chỉ: Khóm B, phường B, thị xã D, tỉnh Trà Vinh. 3.9 Bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1961 (vắng mặt) 3.10 Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1973 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp C, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh. 3.11 Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp R, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh. 4. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị Kim T: Vào ngày 01/6/2015 bà có nhận chuyển nhượng của anh Nguyễn Thanh D1 thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4 diện tích 2.330 m2 (thực đo 2.488,9 m2) loại đất ở - cây lâu năm tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh, do anh Nguyễn Thanh D1 đứng tên quyền sử dụng đất, giá chuyển nhượng bằng 250.000.000 đồng. Hợp đồng được công chứng chứng thực và đăng ký chỉnh trang tư ngày 24/11/2015.

Thửa đất này có nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn Đ cha ruột anh D1 đứng tên, năm 2012 ông Đ chết các đồng thừa kế lập văn bản thỏa thuận phân chia cho anh D1 toàn bộ thửa đất. Anh Dũng chuyển nhượng lại cho bà. Khi chuyển nhượng bà không có đến thửa đất mà chỉ xem giấy chứng nhận quyền sử dụng do anh D1 đứng tên quyền sử dụng đất, anh D1 nói trên đất có nhà của bà nội là Nguyễn Thị L và mẹ là Diệp Thị H đang ở anh D1 cam kết khi sang nhượng xong sẽ di dời nhà và vật kiến trúc trên đất, giao đất và cây trồng trên đất cho bà. Sau khi làm thủ tục sang đất xong bà đến thửa đất thì biết: Ông Nguyễn Văn T1 đang sử dụng một phần đất diện tích 711,7m2. Ông Trần Văn N1 đang sử dụng một phần đất diện tích 823,2 m2, ông N1 khai do bà H và anh D1 chuyển nhượng cho ông N1. Còn lại 954 m2 do bà Nguyễn Thị L, Diệp Thị H, và Nguyễn Thị A N đang sử dụng.

Nay bà Nguyễn Thị Kim T yêu cầu Bà Nguyễn Thị L, bà Diệp Thị H, bà Nguyễn Thị A N, anh Nguyễn Thanh D1, ông Nguyễn Văn T1 ông Nguyễn Văn N2 trả lại cho bà diện tích đất 2.330m2 (diện tích theo hiện trạng đo được là 2.488,9m2) thửa số 32, tờ bản đồ số 4, đất tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị L, Diệp Thị H và lời trình bày của bà Nguyễn Thị A N và bà Nguyễn Thị Thu B đại diện của bà Diệp Thị H: Thửa đất số 32 diện tích 2.330m2 có nguồn gốc của ông bà để lại cho ông Nguyễn Văn Đ. Năm 2012, ông Đ bị bệnh gia đình khó khăn nên bà H cùng con là Nguyễn Thanh D1 chuyển nhượng cho ông Trần Văn N1 872,35 m2 giáp phần đất của ông N1 và chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T1 711,7 m2 để làm lối đi. Đến tháng 6/2012 ông Đ mất anh Nguyễn Thanh D1 giả mạo chữ ký các thành viên gia đình để được đứng tên giấy chứng nhận thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh và chuyển nhượng đất cho bà Nguyễn Thị Kim T các bà không hay biết cho đến khi bà T yêu cầu bà H chuộc đất thì bà H và các thành viên trong gia đình không đồng ý. Nay bà Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị A N, bà Diệp Thị H yêu cầu:

- Hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng ngày 07/5/2015 do Văn phòng C thực hiện việc công chứng.

- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh D1 ngày 12/5/2015.

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 2.330m2 (diện tích theo hiện trạng đo được là 2.488,9m2), thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh giữa ông Nguyễn Thanh D1 và bà Nguyễn Thị Kim T lập ngày 01/6/2015 tại Văn phòng C1. - Hủy xác nhận của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh C chi nhánh huyện C ngày 24/11/2015 về nội dung “Chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1972, CMND số: 334474294, địa chỉ: khóm E, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh theo hồ sơ số 004142.CN.001” Ông Phạm Trường S là đại diện Văn phòng C trình bày: Văn phòng C khi thực hiện việc công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng ngày 07/5/2015 đối với thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh thực hiện đúng trình tự thủ tục, trước khi thực hiện việc công chứng thì Văn phòng có niêm yết tại Ủy ban nhân dân cấp xã sau 15 ngày nếu không ai khiếu nại thì Văn phòng công chứng tiến hành thực hiện việc công chứng theo quy định pháp luật, trong thời gian niêm yết các bên có liên quan đến tài sản không có ai tranh chấp hay khiếu nại gì nên việc các bên yêu cầu hủy văn bản công chứng thì Văn phòng C không đồng ý.

Theo lời khai của anh Nguyễn Thanh D1 trình bày: anh là con của ông Nguyễn Văn Đ và bà Diệp Thị H. Sau khi cha anh mất anh có nói với bà H chuyển tên diện tích đất 2.330 m2 đất cho anh để vay ngân hàng nhưng bà H không đồng ý. Vì cần tiền kinh doanh nên anh lấy giấy đỏ của cha anh để thế chấp vay bên ngoài. Lúc này được người tên Nguyễn Thị Q (anh không biết địa chỉ) hướng dẫn đến Văn phòng C làm thủ tục sang tên. Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 07/5/2015 là do những người quen biết bà Q ký tên lăn tay chứ không phải chữ ký tên và lăn tay của bà Diệp Thị H, Nguyễn Thị A N, Nguyễn Thị Thu B. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh có thế chấp cho bà Nguyễn Thị Kim T vay số tiền 190.000.000 đồng nhưng hợp đồng chuyển nhượng do bà Nguyễn Thị Kim T làm, Biên nhận tiền ngày 12/5/2015 do anh ghi và ký tên cho Tăng Văn N3 vay sau khi anh N3 trả tiền anh thế chấp đất vay của bà T 190.000.000 đồng nhưng biên nhận vẫn giữ biên nhận của của anh ký tên vay cho anh N3. Nay anh không đồng ý theo đơn khởi kiện của bà T vì không có chuyển nhượng đất cho bà T. Ông Nguyễn Văn T1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Trước đây ông có mua của gia đình bà H phần đất có diện tích 711,7m2 bằng hình thức viết giấy tay vì diện tích đất chưa đến 1000m2 nên không thể thực hiện việc cấp giấy, hiện trạng đất khi mua thì đất này là biền lá sau đó ông mới cải tạo san lắp lại cho bằng phẳng và làm đường đi vào đất ông phía trong và trên bờ hai bên có trồng dừa. Việc ông mua đất đều có sự đồng ý của gia đình bà L và bà H và ông sử dụng trước khi bà Nguyễn Thị Kim T mua của ông D1, bà T mua đất của ông D1 nhưng không xem hiện trạng trên đất ai đang sử dụng mà chỉ mua trên giấy tờ nên ông không đồng ý di dời theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim T. Bà Nguyễn Thị Thu B đại diện cho ông Nguyễn Văn N2 trình bày: Vào năm 1997 vợ chồng chị được mẹ và anh em trong nhà thống nhất chuyển nhượng cho vợ chồng chị diện tích 823,2m2 thuộc một phần thửa đất số 32, tờ bản đồ loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Khi chuyển nhượng đất là mương nước trồng lá dừa nước nên vợ chồng chị có cải tạo lên liếp trồng dừa ăn trái. Do trồng dừa không có hiệu quả nên sau đó ban líp xuống và hiện nay trồng lát xung quanh bờ trồng dừa. Khi chuyển nhượng do trong gia đình nên chưa làm thủ tục sang tên. Nay chị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T. Theo lời khai của anh Nguyễn Anh D: ông là cháu chồng của bà Nguyễn Thị L, ông có phần đất giáp với đất của ông Nguyễn Văn Đ. Vào năm 1989 ông có sang của ông Đ một phần đất 82,3 m2 ngang một đầu 2,95m một đầu 3m dài cặp lộ đal 27,6m phía trong là 27,9m để làm đường đi nên không có làm giấy tờ. Nay bà T tranh chấp liên quan đến phần đất này, ông không có yêu cầu trong vụ án này để giữa bà H và bà L với ông giải quyết với nhau.

Ông Trần Minh K là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Ông Thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim T. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã tuyên xử:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim T;

- Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị L, bà Diệp Thị H; Tuyên xử:

- Hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng ngày 07/5/2015 tại Văn phòng C. - Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 787448 của Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh D1 ngày 12/5/2015.

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 2.330m2 (diện tích theo hiện trạng đo được là 2.488,9m2), thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh giữa ông Nguyễn Thanh D1 và bà Nguyễn Thị Kim T lập ngày 01/6/2015 tại Văn phòng C. - Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh C chi nhánh huyện C thu hồi hoặc điều chỉnh lại đăng ký biến động đất đối với thửa đất trên.

- Giao diện tích 2.330m2 (diện tích theo hiện trạng đo được là 2.488,9m2), thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh cho các thừa kế hàng thứ nhất của ông Nguyễn Văn Đ quản lý sử dụng. Các đương sự có nghĩa vụ đăng ký biến động đất đai theo quy định của pháp luật.

- Buộc ông Nguyễn Thanh D1 trả cho bà Nguyễn Thị Kim T số tiền 379.890.000 đồng (Ba trăm bảy mươi chín triệu tám trăm chín mươi ngàn đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 20/6/2022, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bà Nguyễn Thị Kim T trình bày: Bà T là người đi mua đất hợp pháp, hợp đồng được công chứng chứng thực và đăng ký chỉnh lý nên bà T yêu cầu được công nhận hợp đồng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đơn kháng cáo của nguyên đơn hợp lệ nên đề nghị được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

- Về việc giải quyết vụ án: Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Đ, ông Đ có 6 người con. Bà H, ông D1 chuyển nhượng giấy tay cho ông T1 một phần, chuyển nhượng cho ông N2 một phần, giao cho ông D1 sử dụng một phần. Ngày 07/5/2015 tại Văn phòng C có công chứng văn bản thỏa thuận di sản của ông Đ nhưng không có cụ L và 6 người con của ông Đ đã vi phạm Điều 117 Bộ luật dân sự 2015, từ văn bản này ông D1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vi phạm pháp luật, sau đó ông D1 chuyển nhượng cho bà T được cập nhật biến động cũng vi phạm pháp luật và 2 bên đều có lỗi trong giao dịch dân sự vô hiệu như bản án sơ thẩm nhận định là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Kim T kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì mới, nên đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T trong hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T: [2.1] Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Kim T và ông Nguyễn Thanh D1: Ngày 01/6/2015, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim T ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4 diện tích 2.330 m2 (thực đo 2.488,9 m2) loại đất ở - cây lâu năm tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh, do anh Nguyễn Thanh D1 đứng tên quyền sử dụng đất, giá chuyển nhượng bằng 250.000.000 đồng. Hợp đồng được công chứng chứng thực và đăng ký biến động trang 4 ngày 24/11/2015.

Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Đ đã được cấp quyền sử dụng đất. Sau khi ông Đ mất, ông Nguyễn Thanh D1 tự ý làm thủ tục thừa kế phân chia di sản. Xét thấy Văn bản phân chia di sản ngày 07/5/2015 có chứng thực của Văn phòng C các chữ ký của Nguyễn Thị Thu B và Nguyễn Thị A N là chữ ký của người khác theo anh D1 khai là do người quen của bà Q ký, đồng thời theo Kết luận giám định số 358/KL- GĐ ngày 30/12/2016 của Phòng K1 Công an tỉnh T không phải chữ ký của bà Nguyễn Thị Thu B, Nguyễn Thị A N. Bên cạnh đó hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Văn Đ còn có bà Nguyễn Thị L và các con của vợ trước của ông Đ là Bà Nguyễn Thị Thu H1, Bà Nguyễn Thị H2, Ông Nguyễn Văn T2. Thời điểm công chứng văn bản thỏa thuận di sản của ông Đ tại Văn phòng C không có cụ L và 6 người con của ông Đ, từ văn bản này ông D1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vi phạm pháp luật, sau đó ông D1 chuyển nhượng cho bà T được cập nhật biến động đã vi phạm Điều 117 Bộ luật dân sự 2015, Mặt khác, trước khi cấp quyền sử dụng đất cho ông D1 thì bà H và ông D1 đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T1 diện tích 711,7m2, Ông Nguyễn Văn N2 diện tích 823,2m2; ông Nguyễn Anh D diện tích 82,3m2. Ông N2, ông T1 đã cải tạo đất trồng cây lâu năm trên đất này trên 20 năm. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng, việc Ủy ban nhân dân huyện C cấp quyền sử dụng đất cho ông D là không đúng pháp luật là có căn cứ.

Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn để hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng ngày 07/5/2015 tại Văn phòng C và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 787448 của Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh D1 ngày 12/5/2015. Cho nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Kim T và ông Nguyễn Thanh D1 là trái pháp luật nên bị vô hiệu, từ đó tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 2.330m2 (diện tích theo hiện trạng đo được là 2.488,9m2), thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh giữa ông Nguyễn Thanh D1 và bà Nguyễn Thị Kim T lập ngày 01/6/2015 tại Văn phòng C; không chấp nhận yêu cầu đòi đất của bà T là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Xét hậu quả của giao dịch vô hiệu:

Hội đồng xét xử nhận thấy, lỗi của giao dịch vô hiệu là của một mình ông Nguyễn Thanh D1. Bà T không thể biết và cũng không buộc phải biết Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 07/5/2015 hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông D1 là trái pháp luật vì Hợp đồng giữa các bên đã được công chứng và được niêm yết theo đúng trình tự, thủ tục. Do đó ông D1 phải chịu 100% lỗi trên giá trị đất vì ông D1 không chứng minh được hợp đồng chuyển nhượng đất là hợp đồng giả tạo để che dấu hợp đồng vay nợ và ông D1 cũng không chứng minh được bà T chỉ giao cho ông 190.000.000 đồng. Trong khi chứng cứ được các bên thừa nhận là Biên nhận tiền 250.000.000 đồng ngày 12/5/2015 và Hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 01/6/2015 do ông D1 ký tên. Do đó ông D1 phải có trách nhiệm trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim T 100% giá trị đất theo kết quả thẩm định giá ngày 19/4/2022 là 509.780.000 đồng.

Hội đồng xét xử nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định hai bên đều có lỗi trong giao dịch bị vô hiệu, nên bà Kim T và ông D1 mỗi bên phải chịu 50% lỗi trên giá trị trượt giá đất, buộc ông D1 phải có trách nhiệm trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim T 250.000.000 đồng và 50% giá trị trượt giá đất là không đúng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà T. Vì vậy, cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu.

[2.3] Đối với ý kiến của bà T cho rằng nếu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà và ông Nguyễn Thanh D1 thì Văn phòng C và Ủy ban nhân dân huyện C phải bồi thường cho bà:

Hội đồng xét xử nhận thấy Văn phòng công chứng chỉ chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng chứ không phải là người giao kết thực hiện hợp đồng. Văn phòng đăng ký đất đai chỉ đăng ký biến động đất đai nên không có trách nhiệm bồi thường trong vụ án này theo như yêu cầu của bà Kim T. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn là có cơ sở, đung pháp luật.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Kim T không phải chịu án phí sơ thẩm. Ông Nguyễn Thanh D1 phải chịu án phí có giá ngạch trên số tiền 509.780.000 đồng mà bà Nguyễn Thị Kim T được chấp nhận.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bà Nguyễn Thị Kim T không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.

Tuyên xử:

1. Hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng ngày 07/5/2015 tại Văn phòng C. 2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 787448 của Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh D1 ngày 12/5/2015.

3. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 2.330m2 (diện tích theo hiện trạng đo được là 2.488,9m2), thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh giữa ông Nguyễn Thanh D1 và bà Nguyễn Thị Kim T lập ngày 01/6/2015 tại Văn phòng C. 4. Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh C chi nhánh huyện C thu hồi hoặc điều chỉnh lại đăng ký biến động đất đối với thửa đất trên.

5. Giao diện tích 2.330m2 (diện tích theo hiện trạng đo được là 2.488,9m2), thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4, loại đất ở - quả, tọa lạc tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh cho các thừa kế hàng thứ nhất của ông Nguyễn Văn Đ quản lý sử dụng. Các đương sự có nghĩa vụ đăng ký biến động đất đai theo quy định của pháp luật.

6. Buộc ông Nguyễn Thanh D1 trả cho bà Nguyễn Thị Kim T số tiền 509.780.000 đồng (Năm trăm lẻ chín triệu bảy trăm tám mươi ngàn đồng).

7. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

8. Về án phí:

8.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị Kim T không phải chịu. Hoàn trả 6.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0012610 ngày 20/0/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long.

- Ông Nguyễn Thanh D1 phải chịu 24.391.200 đồng án phí sơ thẩm.

8.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Kim T số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0011676 ngày 21/6/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Trà Vinh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 525/2023/DS-PT

Số hiệu:525/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về