TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 50/2024/DS-PT NGÀY 22/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 22 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 575/2023/TLPT-DS ngày 24/11/2023, về việc “ Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án so thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện M, thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 660/2023/QĐX-PT ngày 27/12/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2024/QĐPT-HPT ngày 08/01/2024 giữa:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị L, sinh năm 1977 Địa chỉ: Đội 04, Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện M, Thành phố H.
( Có mặt).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Tào Văn Đ, sinh năm 1981 – Luật sư Công ty Luật TNHH Tín phát và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố H. Địa chỉ: P418, số 142, phố Lê Duẩn, phường Khâm Thiên, quận Đ, thành phố H.
( Có mặt).
2. Bị đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1981.
Địa chỉ: Đội 04, Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện M, Thành phố H.
( Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Đội 04, Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện M, Thành phố H.
( Có mặt).
+ Ông Trần Văn S, sinh năm 1978.
Địa chỉ: Đội 04, Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện M, Thành phố H.
( Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại đơn khởi kiện, các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn và bà Phạm Thị L trình bày: Ngày 24/12/2003, bà Phạm Thị L và ông Nguyễn Văn B đã mua của ông Phạm H2 và bà Nguyễn Thị Bích H3 diện tích đất ở 141m2 (diện tích thực tế 148,6m2) tại: Đội 4, T, thị trấn Đ, huyện M, thành phố H và đến ngày 17/8/2004, UBND huyện M cấp giấy CNQSDĐ số: S 292568 cho hộ Phạm Thị L theo quy định. Căn cứ hồ sơ địa chính và trích lục bản đồ qua các thời kỳ cho thấy: phần mốc giới và ranh giới đất giữa nhà bà L với đất gia đình bà T và hộ ông H2 là một đường thẳng chứ không bị gấp khúc, trong đó thửa đất của nhà bà T là thửa số 129, diện tích 116m2. Năm 2008, bà L xây nhà ở thì gia đình bà T cho rằng bà L đã lấn sang phần đất của gia đình bà T khoảng 0,6 m x dài 8,47m, nên phát sinh tranh chấp hai bên và được UBND thị trấn Đ hòa giải, nhưng không thành công. Để không ảnh hưởng đến việc xây nhà, bà L đã cho xây lùi lại so với ranh giới thửa đất được Nhà nước công nhận năm 2004 khoảng 0,6m đất, (nên đường ranh giới có đoạn bị gấp khúc) phần đất giáp ranh giữa hai bên được Ủy ban ghi nhận trong hồ sơ và bản đồ địa chính là đất đang có tranh chấp đợi giải quyết sau theo quy định.
Năm 2023, gia đình bà T xây nhà ở đã cho xây dựng trên cả phần đất đang có tranh chấp với gia đình bà L, bà L đã yêu cầu bà T phải xây lùi lại và không xây trên phần đất tranh chấp để đợi kết quả giải quyết của Cơ quan có thẩm quyền, nhưng bà T không đồng ý. Ngày 17/03/2023, UBND thị trấn Đ - huyện M đã ra Thông báo số 209/TB-UBND “Về việc yêu cầu tạm dừng xây dựng trên phần đất đang có tranh chấp”, trong đó khẳng định công trình xây dựng của nhà bà T là không đúng với giấy CNQSDĐ đã được Nhà nước cấp và yêu cầu bà T phải tạm dừng xây dựng trên phần đất tranh chấp để đợi kết quả giải quyết hoặc hòa giải thành của các cơ quan có thẩm quyền, nhưng bà T tiếp tục cho xây dựng trên phần đất có tranh chấp với gia đình bà L. Ngày 21/03/2023 và ngày 30/03/2023, UBND thị trấn Đ đã tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai giữa gia đình bà L và bà T, nhưng không thành công.
Nay bà đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện và công nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà đối với phần đất giáp ranh hiện đang bị gia đình bà Phạm Thị T lấn chiếm xây dựng trái phép là 3,8m2 và buộc gia đình bà Phạm Thị T phải phá bỏ phần công trình xây dựng trái phép trên đất lấn chiếm của gia đình bà L để khôi phục lại tình trạng ban đầu.
*Tại các biên bản tự khai và các lời khai của Bị đơn là chị Phạm Thị T trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: Chị xác định nguồn gốc thửa đất số 129, tờ bản đồ số 07, địa chỉ: thị trấn Đ, huyện M, thành phố H hiện tại đang đứng chủ sử dụng là bà T có nguồn gốc là ông cha để lại cho mẹ đẻ của bà T là bà Phạm Thị N (tên gọi khác: Gái) với diện tích ban đầu là 143m2. Về quá trình sử dụng đất bà N là người có khuyết tật nên gia đình bà N có khó khăn, vì vậy khoảng năm 1992 được chi bộ và chính quyền địa phương xây cho 02 gian nhà tình nghĩa trên đất này, vị trí nhà được xây là tiếp giáp ranh giới đất bà H3 (sau này đất bà H3 bán cho bà L). Đến năm 1998 thì mẹ con bà T phá đi xây lại và xây tiến lên so với vị trí nhà ban đầu (tức xây lùi lại so với gianh giới giữa hai nhà) khoảng 01m để trồng hàng cau và xây 01 tường gạch ba banh làm ranh giới đất giữa 02 nhà bà N với nhà bà H3. Do bà N và chị T thường xuyên đi vắng nhà nên năm 2002 bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 116 m2 ( hụt so với diện tích ban đầu là 27 m2 ) bà N cũng không biết đất của bà ban đầu là bao nhiêu m2, lúc nhận bìa đỏ cũng không để ý diện tích nên không biết đất cấp thiếu là 27m2. cho đến năm 2003 bà L mua đất của nhà bà H3 và đến năm 2008 nhà bà L xây nhà thì hai bên xảy ra tranh chấp mốc giới do khi bà L xây nhà thì bà L tự chặt hàng cây cau và phá một phần tường xây gạch ba banh làm mốc giới đi trong khi bà N đang vắng nhà. Bà T không đồng ý cho bà L xây dựng nên thời điểm đó UBND thị trấn Đ đã vào giải quyết, những người hàng xóm xung quanh đều biết đất nhà bà T còn có hàng cây cau và xây tường gạch ba banh. Thời điểm đó Cán bộ địa chính UBND thị trấn Đ có ngồi tại nhà bà Hiền Th để lập văn bản về việc bà L phá cây cau và tường gạch ba banh mốc giới của nhà bà T và yêu cầu đền bù cho nhà bà T vì việc bà L đã tự ý phá hàng cây cau và tường rào ranh giới nhưng văn bản này thì nhà bà T không còn giữ. Bà L mua lại đất nhà ông bà H3 với diện tích 141m2 từ tường nhà bà T đến tường nhà ông Phạm Ánh D1 nhưng bây giờ đo thực tế thì đất nhà L thừa 7,6m2, đến năm 2008 bà L xây nhà đã tự phá tường rào và xây lấn sang đất nhà bà T một ít, cụ thể diện tích nhà bà L xây nhà lấn sang đất nhà bà T bao nhiêu thì bà T chưa đo đạc cụ thể nên mới mất đường thẳng. Khi bà H3 H2 bán đất cho bà L B thì bà H3 H2 cũng công nhận từ tường ranh giới từ nhà bà T lên tường nhà ông D1 ( nay là nhà ông H1 đang ở) là đường thẳng. Thời điểm đó mẹ của bà T đi chùa ở Đanh Xuyên còn bà T ở H nên không nắm bắt được. Từ đó hai gia đình xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp. Bây giờ bà T làm nhà thì bà T mới biết diện tích đất nhà bà T là 143m2, bà L xây lấn sang nhà của bà T. Khi mẹ bà T là bà Phạm Thị N tặng cho bà T và bà T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà T có biết diện tích đất bị thiếu so với thực tế nhưng bà T không có ý kiến gì vì bà T không biết diện tích ban đầu của đất này là 143m2 nên không có khiếu nại, ý kiến gì. Giờ có tranh chấp bà T mới biết đất nhà bà T bị thiếu. Huyện bảo làm đường, làm ngõ, nhà bà T rất thấp nên bà T mới phải đi vay mượn về làm nhà. Khi phá ra để làm nhà hiện nay thì mới biết diện tích đất nhà bà T là 143m2 do ông cha để lại. Vì không biết nên bà T mới ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 116m2. Nay bà T không đồng ý với yêu khởi kiện của bà Phạm Thị L vì cho rằng đất bà T đang thiếu trong khi đất bà L đang thừa so với thời điểm nhận chuyển nhượng của bà H3 H2.
Bà L có quan điểm trình bày tiếp theo: Năm 2004 bà L mua đất của bà H3 H2 với diện tích theo giấy chứng nhận của bà H3 là 141m2, sau khi mua đất thì bà L chưa làm nhà mà năm 2005 vợ chồng bà đi làm ăn ở trong Nam. Thời gian này bà T ở nhà đã tự ý trồng cau và xây gạch ba banh sang phần ranh giới đất bà L, cho đến năm 2008 thì vợ chồng bà L về và tiến hành làm nhà thì có gọi địa chính vào đo đạc xác định lại mốc giới hai nhà và đã xác định phần đất trồng cau và phần xây tường gạch ba banh của bà T chính là phần đất nhà bà L đã mua. Hai bên đã xảy ra tranh chấp chưa được giải quyết ngay trong khi đó bà L lại đến ngày làm nhà. Do vậy Ủy ban thị trấn có khuyên nhà bà L làm nhà lùi lại, để nguyên phần đất có tranh chấp để chờ giải quyết sau nên bà L mới chấp nhận lùi vị trí làm nhà để bớt lại phần đất đang có tranh chấp chờ giải quyết sau, chính vì nhà bà L lùi lại nên phần ranh giới mới không còn là đường thẳng mà trở thành đường gấp khúc khuỳnh sang phần đất bà L. Từ thời điểm đó hai bên vẫn để nguyên cho đến đầu năm 2023 gia đình bà T làm nhà không bớt lại phần đất đang có tranh chấp nên bà L mới khởi kiện ra tòa. Về thửa đất nhà bà L sau khi Tòa án tiến hành đo đạc có thừa ra 7,6m2 nhưng nhà bà T được Tòa án đo đạc còn thừa ra 14 m2 so với diện tích đã được cấp trong bìa đỏ.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn B trình bày: ông thừa nhận mình không có quyền lợi về đất nhưng có quyền lợi về tài sản trên đất với bà L. Ông B đồng ý với phần trình bày của bà Phạm Thị L và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị L, không có ý kiến, quan điểm gì khác.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn S (chồng bà T) trình bày: ông thừa nhận mình không có quyền lợi về đất của bà T nhưng có quyền lợi về tài sản trên đất với bà T. Ông S đồng ý với phần trình bày và quan điểm của bà T không có ý kiến, quan điểm gì khác.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện M, thành phố H đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L về yêu cầu khởi kiện tranh chấp mốc giới đối với bà Phạm Thị T với diện tích tại phần ranh giới bị lấn chiếm là 3.82 m2, có giá trị là quyền sử dụng đất là 76.400.000 đồng (Bẩy mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng). Buộc bà T phải thanh toán cho bà Phạm Thị L giá trị quyền sử dụng đất đã lấn chiếm là 76.400.000 đồng. Đồng thời giữ nguyên hiện trạng ranh giới đất như hiện tại các bên đang quản lý sử dụng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 05/10/2023 bà Phạm Thị T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện M, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L; Ngày 05/10/2023 bà Phạm Thị L có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, đề nghị sửa bản án sơ thẩm buộc gia đình bà Phạm Thị T phải phá dỡ phần công trình nhà ở đã xây dựng trên phần đất lấn chiếm của gia đình bà.
Tại phiên tòa Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo; Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Các đương sự xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã xuất trình cho Tòa án thì không còn chứng cứ nào khác xuất trình cho Tòa án.
Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị L sau khi tóm tắt nội dung vụ án và phân tích nội dung vụ án có quan điểm: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà L sửa một phần bản án sơ thẩm buộc gia đình bà T phải dỡ bỏ phàn công trình nhà ở đã xây trên phần đất lấn chiếm của gia đình bà L là 3,82m2 đất để khôi phục lại tình trạng ban đầu .
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự trong vụ án chấp hành quyền, nghĩa vụ theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ xét thấy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị L và bà Phạm Thị T. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm; về án phí các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Phạm Thị L và bà Phạm Thị T làm trong thời hạn luật định. Người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Thành phố H giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2].Về nội dung: xét yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị L và bà Phạm Thị T, Hội đồng xét xử xét thấy các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện nguồn gốc diện tích đất của gia đình bà Phạm Thị L theo bản đồ năm 1983 là thửa đất số 385, tờ bản đồ số 01, có diện tích là 196m2, mang tên chủ sử dụng là ông Phạm H2; Theo bản đồ năm 1998 thửa đất này được đổi thành thửa đất số 48, tờ bản đồ số 07, diện tích là 141m2 mang tên chủ sử dụng đất là Nguyễn Thị Bích H3 ( là vợ ông Phạm H2). Ngày 28/01/2002 hộ bà H3 được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 48, tờ bản đồ số 07 diện tích 141m2. Ngày 15/12/2003 ông Phạm H2 và bà Nguyễn Thị Bích H3 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Văn B. Ngày 17/8/2004 Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên cho Hộ gia đình bà Phạm Thị L với diện tích 141m2.
Theo bản đồ năm 1983 thửa đất của gia đình bà Phạm Thị T là thửa đất số 380, tờ bản đồ số 01, có diện tích 193m2 mang tên bà Phạm Thị N ( tức bà Gái là mẹ của bà T); theo bản đồ năm 1998 thửa đất này được đổi thành thửa số 129 có diện tích là 116m2. Năm 2002 bà Phạm Thị N đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S173439 với diện tích đất là 116m2.
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cả hai gia đình thì diện tích đất của hai gia đình bà H3, bà N đều bị hụt đi, tuy nhiên từ đó cho đến nay cả 02 gia đình đều không có ý kiến thắc mắc gì về việc cấp giấy chứng nhận thiếu diện tích đất của hai hộ. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà H3 và bà N đã sang tên quyền sử dụng đất cho các chủ mới là bà T và bà L. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định thửa đất số 129 có diện tích là 116m2 và thửa đất số 48 có diện tích là 141m2 để làm căn cứ xác định diện tích đất bị tranh chấp là có căn cứ.
Quá trình giải quyết bà T cho rằng đất hai nhà có ranh giới là tường gạch ba banh và hàng cau nhưng đến thời điểm khởi kiện đã bị phá bỏ từ lâu. Bà L không thừa nhận và cho rằng gia đình bà L đi làm ăn xa không có nhà, nên gia đình bà T đã tự ý xây hàng gạch ranh giới này lấn sang phần đất nhà bà L và không được coi là mốc giới giữa hai nhà. Căn cứ theo hồ sơ địa chính và trích lục bản đồ địa chính qua các thời kỳ, trích lục bản đồ thể hiện tại trang III của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện M đã cấp cho gia đình bà L, bà T và nhà ông H2 đều thể hiện phần mốc giới và ranh giới đất giữa các hộ dân này là một đường thẳng chứ không bị gấp khúc như trên thực tế hiện nay ranh giới này không còn là đường thẳng mà bị gấp khúc sang đất bà L. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã sử dụng phương pháp so sánh trùng khớp các thời kỳ bản đồ được lưu tại ủy ban nhân dân thị trấn làm căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai nhà bà L và bà T với sơ đồ đo đạc hiện trạng thực tế của 02 thửa đất và kết quả cho thấy: cạnh phía Đông Bắc của thửa đất số 129 (đất bà Thuý) có lấn sang đất bà L là 0,41m, cạnh phía Nam đất bà T lấn sang đất bà L là 0,48 m, chiều dài cạnh Đông Bắc đến cạnh Tây Nam là 8,51m. Từ đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định diện tích đất gia đình bà T lấn sang đất của gia đình bà L là 3,82m2 là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, gia đình bà Phạm Thị L và gia đình bà Phạm Thị T đều đã xây dựng nhà kiên cố và ăn ở ổn định. Xét thấy, để đảm bảo tính ổn định, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L, buộc bà Phạm Thị T thanh toán trả cho bà Phạm Thị L giá trị phần diện tích đất chồng lấn là 3,82m2 tương đương với số tiền 76.400.000đ là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên xét thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị L và bà Phạm Thị T.
Quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà L không phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ nên không được chấp nhân.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ, nên được chấp nhận.
* Về án phí: Do yêu cầu kháng cao không được chấp nhận nên bà Phạm Thị L và bà Phạm Thị T phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 166,168 Bộ luật dân sự năm 2015.
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
Giữ nguyên bản án sơ thẩm sơ số 70/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện M, thành phố H.
Về án phí phúc thẩm: Bà Phạm Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0039527 ngày 05/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, thành phố H.
Bà Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0039523 ngày 05/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, thành phố H.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 50/2024/DS-PT
Số hiệu: | 50/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về