TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 498/2023/DS-PT NGÀY 14/12/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 08 và 14 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số 326/2023/TLPT-DS ngày 11 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 72/2023/DSST ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 477/2023/QĐ-PT ngày 23 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1955; địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
2. Bị đơn:
2.1 Ông Trương Văn T, sinh năm 1963; địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
2.2 Ông Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Đại diện ủy quyền của ông T1: Bà Nguyễn Kim Y, sinh năm 1971; địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Bà Phạm Thị D, sinh năm 1955; địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1955; địa chỉ: Ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
3.2 Ủy ban nhân dân huyện T, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Địa chỉ: Khu H nhân dân huyện, địa chỉ: ấp T, thị trấn T, huyện T, thành phố Cần Thơ.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày: Ông có quyền sử dụng đất diện tích 6.500 m2, thửa 245, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. Ngày 02/4/1990, ông chuyển nhượng cho ông Trương Văn T diện tích 3.900 m2, giá chuyển nhượng là 4,5 chỉ vàng 24K. Đến ngày 09/12/1990, ông T1ếp tục chuyển nhượng cho ông T diện tích 1.300 m2, giá chuyển nhượng là 1.5 chỉ vàng 24K. Tổng cộng 02 lần chuyển nhượng là 5.200 m2, phần đất ông còn lại là 1.300 m2 bao gồm mương và bờ trâm bầu. Ngày 10/6/1994, ông T được UBND huyện Ô (cũ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 245, với diện tích 5.000 m2, sau đó điều chỉnh lại thành 6.500 m2. Tại “Tờ chuyển nhượng thành quả lao động, ruộng đất” ngày 02/4/1990 và ngày 09/12/1990 ông T đã tự ghi thêm vào là chuyển nhượng hết diện tích đất còn lại là 1.300 m2. Ngày 21/01/2009, nhà nước thu hồi 351m2 để làm kênh. Ngày 23/01/2009, ông T chuyển nhượng hết phần đất trên cho ông Nguyễn Thanh T1. Căn cứ Bản trích đo địa chính số 24/TTKTTNMT ngày 05/5/2022, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T và ông T1 phải trả lại phần đất có diện tích 681,7 m2 (gồm phần vị trí A theo bản vẽ có diện tích 328 m2 và phần diện tích còn dư của thửa 245 là 353,7m2).
Bị đơn ông Trương Văn T trình bày: Ngày 02/4/1990, ông có nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn N phần đất có diện tích 3.900 m2. Đến ngày 09/12/1990 ông T1ếp tục nhận chuyển nhượng phần bờ còn lại với giá là 1,5 chỉ vàng 24K. Đến năm 1994, ông được UBND huyện Ô (cũ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 245, với diện tích 6.500 m2, sau đó điều chỉnh cấp lại diện tích 5.000 m2, diện tích 1.500 m2 còn lại là của Nhà nước. Khi nhận chuyển nhượng lần thứ 02, ông mua toàn bộ phần diện tích còn lại giáp tới đường tỉnh 922 bây giờ và san lắp kênh nên diện tích có tăng. Thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông có khiếu nại trong sổ mục kê sử dụng diện tích 6.500 m2 nhưng cấp giấy diện tích chỉ có 5.000 m2 thì được trả lời phần đất còn lại là của Nhà nước nên ông không ý kiến gì thêm. Ngày 21/01/2009, Nhà nước thu hồi 351 m2 để làm kênh dẫn nước làm ruộng, diện tích còn lại là 4.649 m2. Năm 2007, ông chuyển nhượng toàn bộ diện tích trên cho ông Nguyễn Thanh T1. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông N về việc buộc ông có trách nhiệm trả lại phần đất diện tích 681,7 m2, ông không đồng ý vì phần đất trên ông đã chuyển nhượng hết cho ông T1.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T1 - bà Nguyễn Kim Y trình bày: Năm 2007, ông T1 có nhận chuyển nhượng có nhận của ông T diện tích đất 5.900 m2 và đã được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất và hiện nay đang quản lý sử dụng. Trước đây, ông N đã chuyến nhượng toàn bộ phần đất trên cho ông T, sau đó ông T đã chuyển nhượng hết lại cho ông T1. Do đó, ông T1 không đồng ý đối với yêu cầu trả lại diện tích 681,7 m2 như ông N yêu cầu. Ngoài ra, ông T1 còn có yêu cầu phản tố căn cứ hợp đồng chuyển nhượng thì ông T1 đã nhận chuyển nhượng hết thửa 245 bao gồm cả phần lề lộ giáp với đường tỉnh 922 hiện tại từ ông T. Do đó, ông T1 có yêu cầu ông N phải trả lại phần đất cặp lề lộ 922 có diện tích 652,1 m2.
Tại bản án sơ thẩm số 72/2023/DSST ngày 26/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thói Lai đã tuyên xử như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn N về việc buộc ông Trương Văn T, ông Nguyễn Thanh T1 phải trả lại diện tích đất 681,7m2 tại thửa 245, tờ bản đồ số 10, đất tọa lạc tại ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ.
2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh T1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn N trả lại phần lề lộ diện tích 652,1m2, đất tọa lạc tại ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ.
3. Công nhận cho ông Nguyễn Thanh T1 được quyền sử dụng đất có diện tích là 778,7 m2 thuộc thửa 245, tờ bản đồ số 10, đất tọa lạc tại ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ.
Ông Nguyễn Thanh T1 được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để điều chỉnh biến động diện tích đất đang sử dụng thực tế theo Bản trích đo địa chính số 24/TTKTTNMT ngày 05/5/2022 của Trung tâm K - Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí thẩm định, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 10/7/2023, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm giải quyết buộc ông Nguyễn Thanh T1 trả lại phần diện tích đất 681,7m2 (gồm vị trí A theo bản vẽ có diện tích 328m2 và phần diện tích còn dư của thửa 245 là 353,7m2) so với tổng diện tích trên hai giấy mua bán tay.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày: Ông N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và cho rằng phần đất tranh chấp có nguồn gốc là của gia đình đã cho ông N diện tích 6.500m2. Đến năm 1990, ông N chuyển nhượng cho ông T 02 lần theo thoả thuận tại hai “Tờ chuyển nhượng thành quả lao động ruộng đất” ngày 02/01/1990 và ngày 09/12/1990, tổng diện tích là 5.200m2, phần bờ bao giáp lộ và một phần diện tích còn lại là 1.300m2 ông N không chuyển nhượng. Quá trình làm thủ tục, ông T chỉ được cấp giấy 5.000m2, sau đó ông T chuyển nhượng lại cho ông T1, việc này ông N không biết, vì không ký giáp ranh cho ông T, ông T1 làm thủ tục.
Bị đơn Ông Trương Văn T trình bày: Vào khoảng năm 1990, ông T có nhận chuyển nhượng đất của ông N hai lần với diện tích là 6.500m2, riêng phần bờ bao là mua thêm và đã trả cho ông N 6 chỉ vàng, việc chuyển nhượng giữa các bên có giấy tờ và được xác nhận của địa phương. Khi ông T làm thủ tục thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 5.000m2, phần đất còn lại thuộc quản lý của nhà nước nên ông không khiếu nại, việc làm giấy tờ do cơ quan địa chính thực hiện, ông N đã chuyển nhượng cho ông T hết đất nên không cần phải ký xác nhận ranh. Sau đó phần đất ông T nhận chuyển nhượng bị thu hồi một phần để làm kênh thủy lợi. Phần đất còn lại ông T chuyển nhượng hết cho ông Nguyễn Văn T2 canh tác cho đến nay. Ông T không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông N.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 - bà Nguyễn Kim Y trình bày: Phần đất tranh chấp ông N cho rằng không chuyển nhượng nhưng từ khi ông N bán đất cho ông T cho đến nay phần đất này ông không sử dụng. Đới với việc ông T1 chuyển nhượng đất của ông T, ông N cho rằng không biết là không đúng vì khi làm thủ tục ông T1 có đến cho ông N biết nhưng không có ý kiến. Nay phía ông T1 không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông N.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý theo thủ tục phúc thẩm và tại phiên tòa hôm nay, đương sự và Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Nhận thấy, trên cơ sở lời trình bày của các đương sự và qua diễn biến tại phiên tòa kiểm sát viên đề nghị áp dụng khoản 2 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm số 72/2023/DS-ST ngày 26/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, sửa phần tuyên của bản án đối đối với phần diện tích chênh lệch dư theo kết quả đo đạc thực tế thì ông T1 có quyền liên hệ cơ quan chức năng xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Thủ tục kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N thực hiện trong thời hạn luật định, nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Trên cơ sở tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn, cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là phù hợp theo quy định tại khoản 9 điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung tranh chấp và nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N. Nhận thấy:
Về nguồn gốc đất của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N cho rằng năm 1976 được cha mẹ tặng cho diện tích đất 6.500m2, ông canh tác đến năm 1990 thì chuyển nhượng lại cho ông T 02 lần với diện tích 5.200m2, còn lại 1.300m2 là mương và bờ trâm bầu.
Qua xem xét chứng cứ trong hồ sơ thấy rằng: Tờ chuyển nhượng thành quả ruộng đất ngày 02/4/1990, thể hiện nội dung ông N (Bên A) chuyển nhượng cho ông T (Bên B) diện tích 3.900m2, với giá là 4C, 5 rưởi vàng 24k, “phần bờ chưng bầu bên B sử dụng” và Tờ chuyển nhượng thành quả lao động ruộng đất được lập ngày 09/12/1990, thể hiện nội dung ông N chuyển nhượng cho ông T (bên B) 1,3 công bờ liếp đang sản xuất tại tập đoàn A với số vàng là 1,5 chỉ rưởi, “chưng bờ 5m sang cho hộ B để sử dụng”. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, ông T kê khai sổ mục kê 6.500m2 nhưng khi thực hiện thủ tục đăng ký chỉ được công nhận theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 000155/QSDĐ ngày 10/06/1994, thửa 245, diện tích là 5.000m2, loại đất 2L, tờ bản đố số 01, toạ lạc tại ấp T, xã T, huyện Ô, tỉnh Hậu Giang (nay là ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ).
Ông N cho rằng ông T đã tự ý ghi, vẽ ngoài lề trang giấy là sử dụng hết đất vào 02 tờ chuyển nhượng thành quả lao động ruộng đất vì văn bản trên phía ông T là người giữ và cung cấp bản chính cho tòa án. Ông T cho rằng đã nhận chuyển nhượng hết đất của ông N, riêng bờ trâm bầu nhận chuyển nhượng là 06 chỉ vàng nhưng không xuất trình được chứng cứ minh. Mặt khác khi chuyển nhượng đất lần 1 vào ngày 02/4/1990, các bên chỉ chuyển nhượng 3.900m2 và lần 2 ngày 09/12/1990 là 1.300m2 được chính quyền địa phương xác nhận đã chuyển nhượng diện tích trên, không thể hiện nội dung chuyển nhượng diện tích bờ trâm bầu. Từ cơ sở trên xác định qua hai lần giao dịch chuyển nhượng đất của các bên diện tích chỉ là 5.200m2, phần bờ trâm bầu ông T chỉ được quyền sử dụng không thể hiện việc chuyển nhượng cũng như trả giá trị đối với phần đất bờ trâm bầu.
Quá trình sử dụng đất, giữa ông N và ông T phát sinh tranh chấp phần đất bờ trâm bầu giáp lộ. Đến ngày 24/12/1999, được chính quyền địa phương hoà giải và kết luận “Phần đất lề lộ là đất do nhà nước quản lý nên không giao quyền sử dụng cho bên nào. Tuy nhiên, nhà nước chưa sử dụng nên chủ hộ có quyền sử dụng phần hoa màu”. Ông T không đồng ý nội dung kết luận vì cho rằng đã mua hết đất của ông N. Khi giải quyết tranh chấp tại địa phương, tại Biên bản đo đạc thẩm tra xác minh, mô tả thửa đất ngày 16/4/2000 thể hiện phần đất bờ trâm bầu nằm hoàn toàn trên mương lộ do nhà nước quản lý.
Thời điểm năm 1999, ông N và ông T bắt đầu phát sinh tranh chấp, ông T gửi đơn đến UBND cấp xã cho rằng phần lề lộ là của mình do nhận chuyển nhượng hết đất từ ông N. Đến năm 2004, ông N có đơn thưa cho rằng hai bên lề lộ là của ông và không có bán cho ông T.
Ngày 25/6/2018, UBND huyện T có văn bản số 1884/UBND-TNMT trả lời kiến nghị của UBND xã X về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Trương Văn T và ông Nguyễn Văn N đối với phần đất có diện tích 798 m2 là thuộc đất công do Nhà nước quản lý.
Căn cứ theo Bản trích đo địa chính số 24/TTKTTNMT ngày 05/5/2022 của Trung tâm K thì diện tích thửa 245 là 2642.5m2 và thửa 2451 diện tích là 2.785,2m2, tổng diện tích là 5.427.7 m2. Hai bên đang tranh chấp tại vị trí A diện tích là 328.0m2.
Xét thấy, ông N cho rằng được cha mẹ tặng cho phần đất có diện tích 6.500 m2 nhưng không cung cấp được bất cứ tài liệu chứng cứ nào để chứng minh về quyền sử dụng đất, diện tích đất đang canh tác thời điểm được tặng cho đất. Đồng thời ông N cũng chưa chứng minh được sau khi chuyển nhượng đất cho ông T thì diện tích đất của ông N còn lại là bao nhiêu. Ông N khởi kiện tranh chấp tại vị trí A nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình đề được xem xét theo quy định tại điều 100 của Luật đất đai năm 2013. Mặt khác từ khi chuyển nhượng đất cho đến khi khởi kiện, phần đất tranh chấp ông N không trực tiếp quản lý sử dụng mà do ông T1 quản lý canh tác. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Đối với phần đất ông T nhận chuyển nhượng: Theo Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất, sổ đăng ký ruộng đất được cơ quan có thẩm quyền xác nhận diện tích là 6.500 m2. Nhưng chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 5000m2. Đối với phần diện tích còn lại, ông T thừa nhận được cơ quan có thẩm quyền giải thích phần đất trên thuộc đất nhà nước quản lý nên không công nhận cho ông T và ông cũng không có bất kỳ khiếu nại hay phản đối nào cho đến khi ông N khởi kiện điều này thể hiện ông đã chấp nhận diện tích đất theo giấy chứng nhận được cấp.
Xét theo Quyết định số 736/QĐ.UBND của UBND huyện C ngày 10/3/2008, thửa 245 bị thu hồi một phần diện tích 351m2 để xây dựng công trình nạo vét kênh Đ, G thầu1: Đào mới kênh H từ thị trấn T đến thị trấn C, huyện C. Do vậy, xác định phần diện tích còn lại của thửa 245 là 4.649m2, ông T chuyển nhượng hết cho ông Nguyễn Thanh T1 phần diện tích này, việc chuyển nhượng qua tên ông T1 được xác nhận tại trang 4 của giấy chứng nhận vào ngày 23/01/2009.
Căn cứ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Thanh T1 diện tích được công nhận là 4.649 m2. Đối với phần diện tích chênh lệch là 778,7 m2, cấp sơ thẩm căn cứ vào Biên bản đo đạc và xem xét thẩm định tại chỗ ngày 12/3/2021, xác định ranh giới thửa đất 245 ổn định, ông T1 đang trực tiếp canh tác, để giao phần diện tích đất chênh lệch là 778,7 m2 cho ông T1 sử dụng là không phù hợp. Bởi lẽ, bị đơn có đơn phản tố yêu cầu nguyên đơn phải trả lại phần diện tích đất cặp lề lộ 652,1m2. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 rút lại yêu cầu phản tố nên cấp sơ thẩm đình chỉ yêu cầu phản tố của ông T1 là đúng. Nhưng sau đó lại công nhận cho ông Tân phần diện tích đất 778,7m2 là phần diện tích ông T1 sử dụng dư so với diện tích được cấp giấy và được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để điều chỉnh biến động diện tích đất đang sử dụng thực tế theo Bản trích đo địa chính số 24/TTKTTNMT ngày 05/5/2022 của Trung tâm K - Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C là không có căn cứ. Bởi phần diện tích đất này ông T1 không có yêu cầu phản tố. Đồng thời, theo Tờ chuyển nhượng thành quả ruộng đất ngày 02/4/1990, thể hiện thửa đất 245 cạnh chiều dài ngoài hướng T diện tích là 136m, cạnh chiều dài trong hướng Tây Nam diện tích là 136m, nay đo đạc thực tế chiều dài cạnh ngoài là 154,69m tăng 18,69m, chiều dài cạnh trong là 185,16m tăng 49,16m. Xét việc tranh chấp giữa ông N và ông T đã được UBND huyện T có ý kiến thể hiện tại công văn số 1884 xác định phần đất tranh chấp 798 m2 là thuộc đất công do Nhà nước quản lý, không thuộc quyền sở hữu sử dụng của cá nhân nào nên không thể giao cho các bên quyền sử dụng như nhận định trên. Xét thấy, cần sửa bản án sơ thẩm đối với phần quyết định này.
Từ các căn cứ trên, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận nên phải nộp tiền án phí theo quy định. Tuy nhiên, do ông N thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N.
Sửa một phần bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn N về việc buộc ông Trương Văn T, ông Nguyễn Thanh T1 phải trả lại diện tích đất 681,7m2 tại thửa 245, tờ bản đồ số 10, đất tọa lạc tại ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ. (Kèm theo Bản trích đo địa chính số 24/TTKTTNMT ngày 05/5/2022 của Trung tâm K- Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C).
2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh T1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn N trả lại phần lề lộ diện tích 652,1m2, đất tọa lạc tại ấp T, xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ.
3. Về chi phí thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Văn N phải chịu số tiền 4.933.000 đồng (Bốn triệu, chín trăm ba mươi ba ngàn đồng) (đã nộp xong).
4. Về án phí:
4.1 Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn thuộc trường hợp được miễn án phí. Bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.141.000 đồng (Một triệu, một trăm bốn mươi mốt ngàn đồng) theo biên lai thu số 0005989 ngày 03/02/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
4.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N không phải nộp do thuộc trường hợp người cao tuổi.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 498/2023/DS-PT
Số hiệu: | 498/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về