TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 47/2021/DS-PT NGÀY 01/02/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 01 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 350/2020/TLPT-DS ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp dân sự Quyền sử dụng đất”.Do bản án dân sự sơ thẩm số 35/2020/DS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 432/2020/QĐ-PT ngày 02 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Đinh Hồ Hữu P, sinh năm 1989;
Địa chỉ: thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp;
Người bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn Luật sư T – Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn luật sư tỉnh V. Địa chỉ: phường I, thành phố V, tỉnh V.
- Bị đơn: Nguyễn Văn N, sinh năm 1948.
Địa chỉ: khóm P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện ủy quyền của bị đơn: Đặng Thị Kim T, sinh năm 1962;
Địa chỉ: khóm M, phường M, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp theo văn bản ủy quyền ngày 26/8/2020.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. NLQ1, sinh năm 1979;
2. NLQ2, sinh năm 1983;
3. NLQ3, sinh năm 2002;
4. NLQ4, sinh năm 2006;
Cùng địa chỉ: khóm P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
(Anh P, bà T có mặt; các đương sự còn lại có đơn xin vắng mặt);
Người kháng cáo: ông Nguyễn Văn N là bị đơn, NLQ1 là người liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn anh Đinh Hồ Hữu P trình bày:
Đất đang tranh chấp có nguồn gốc của cụ B, cụ B cho đất lại con gái là bà Hồ Thị H, bà H được cấp quyền sử dụng đất lần đầu ngày 10/3/1992 thuộc thửa 152, tờ bản đồ số 02, diện tích 98m2. Ngày 30/01/2015 bà H được cấp đổi giấy quyền sử dụng đất thửa 152, tờ bản đồ số 02 thành thửa số 196, tờ bản đồ số 21, diện tích 64,7m2 (đo thực tế 67,lm2), ngày 31/7/2015 bà H chết. Trước đó, ngày 09/12/2014 bà H lập Tờ di chúc để thửa đất 152 cho cháu là anh Đinh Hồ Hữu P.
Ông Nguyễn Văn N ở nhờ trên thửa đất 196 từ năm 1976, người cho ông N ở nhờ là cụ Hồ Hữu L (cụ L là anh của bà H), bà H không đồng ý nhưng do ông L là anh hai nên bà H vẫn để cho ông N ở tạm, khi nào cần sử dụng thì bà H sẽ lấy lại. Nghĩa vụ thuế đối với thửa 196 do cụ H là người nộp. Quá trình sử dụng đất, đến năm 2001 ông N có chỗ ở mới tại số 176, tổ 01, khóm P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp, không ở trong căn nhà trên thửa 196 mà căn nhà cho hộ anh NLQ1 thuê ở từ năm 2001 đến nay.
Do anh P được bà H để lại di sản là thửa đất 196, nên anh yêu cầu ông N, hộ NLQ1 di dời tài sản để trả đất cho anh P; anh P đồng ý hộ NLQ1 lưu cư 06 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp anh P được sử dụng căn nhà, anh P đồng ý trả giá trị nhà cho ông N là 46.256.997 đồng. Ngoài ra, trong thời gian sử dụng đất thì ông N san lấp cái mương lạng để cất nhà, diện tích cát san lấp sâu khoảng 0,5m x 67,lm2 = 33.55m3 cát x 100.000đ/m3 = 3.355.000 đồng. Anh P đồng ý bồi hoàn cho ông N tổng cộng giá trị nhà và cát san lấp bằng 49.611.997 đồng.
Nếu anh P không được sử dụng đất, thì yêu cầu ông N trả lại giá trị đất theo giá thị trường mà Hội đồng định giá đã định 8.883.000đ/m2 và không yêu cầu gì khác. Các yêu cầu khác của ông N, anh P không đồng ý. Anh P thống nhất với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 09/5/2018, Biên bản định giá tài sản ngày 29/6/2020, không yêu cầu Tòa án xem xét thẩm định lại.
- Bị đơn Nguyễn Văn N, đại diện ủy quyền bà Đặng Thị Kim T trình bày: Năm 1976, ông Nguyễn Văn N ở nhờ đất của ông Hồ Hữu L thuộc thửa 196, tờ bản đồ số 21, diện tích 64,7m2. Việc ông L cho ông N ở nhờ chỉ nói miệng. Khi ông N ở thì ông L chưa được cấp quyền sử dụng đất (ông Hồ Hữu L là anh ruột của bà Hồ Thị H, nay ông L đã chết). Trong thời gian ông N ở thì có nói với bà Hồ Thị A để chuyển nhượng thửa 196, nhưng bà A không đồng ý và nói ông N cứ ở không ai tranh chấp.
Năm 1992 bà H được cấp quyền sử dụng đất ông N không biết, ông N ở trên thửa 196 đến năm 2017 thì không ở nữa và cho NLQ1 thuê nhưng không lấy tiền thuê, NLQ1 muốn trả bao nhiêu thì trả, không trả thì thôi. Hiện nay ông N đang sống tại địa chỉ số 176, tổ 01, khóm P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp (nhà con gái là Nguyễn Thị Hồng N).
Trong thời gian sử dụng, thửa đất 196 là bãi rác và đất trũng, ông N đã san lấp diện tích 67,lm2, độ sâu 05m, giá trị san lấp là 55.275.000đ (335m3 x 165.000đồng/m3 = 55.275.000 đồng). Giá cát san lấp theo giá thị trường 165.000 đồng/m3 và đồng thời quá trình sử dụng ông N có công giữ gìn phần đất từ lúc ở cho đến năm 2017.
Nay ông N không đồng ý trả đất theo yêu cầu anh P mà yêu cầu được tiếp tục sử dụng đất, ông N đồng ý trả giá trị đất cho anh P 3.600.000đ/m2, không đồng ý trả theo giá thị trường là 8.883.000 đồng/m2.
Nếu phải trả lại đất, ông N đồng ý để lại căn nhà cho anh P sử dụng, yêu cầu anh P trả các khoản gồm: Giá trị nhà và tài sản trên đất là 46.256.997 đồng, san lấp cát là 55.275.000 đồng; công sức quản lý giữ gìn phần đất tranh chấp là 86.000.000 đồng; tổng cộng là 187.531.997đồng.
Ông N thống nhất biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản ngày 09/05/2018; Biên bản định giá tài sản ngày 29/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản do Tòa án thành lập đề xét xử, không yêu cầu xem xét thẩm định và định giá lại.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ NLQ1 trình bày: Thửa đất 196, tờ bản đồ số 21 là do NLQ1 thuê của ông N, khi thuê thì trên đất có căn nhà của ông N, vì là cháu nên NLQ1 không có trả tiền thuê cho ông N, mà anh đưa bao nhiêu thì đưa ông N cũng không đòi. Khi ở thì NLQ1 chỉ có dựng thêm một vách tol, lắp 01 cửa nhôm nhà tắm, 01 cửa nhôm phòng ngủ; giá trị vách tol, cửa nhôm nhà tắm, cửa nhôm phòng ngủ như biên bản định giá; tuy nhiên, NLQ1 không yêu cầu gì đối với những tài sản này. NLQ1 không có ý kiến gì đối với việc anh P tranh chấp với ông N, NLQ1 thừa nhận anh còn đất chỗ khác nhưng chưa được tuổi xây dựng nhà nên anh chưa di dời. Việc tiếp tục sử dụng thửa đất 196 và căn nhà của ông N hay không thì anh sẽ tự thỏa thuận với anh P hoặc ông N, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
+ NLQ2, NLQ3, NLQ4 không có ý kiến.
Bản án sơ thẩm số 35/2020/DS-ST ngày 16/7/2020 của Tòa án huyện C đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đinh Hồ Hữu P.
1.1. Buộc ông Nguyễn Văn N trả lại diện tích đất đo thực tế là 67,1m2 được thể hiện bởi các mốc 1, 2, 3, 4, 5 và 1 theo sơ đồ đo đạc ngày 18/05/2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C, thuộc thửa 196, tờ bản đồ số 21, đất tọa lạc tại khóm P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cho anh Đinh Hồ Hữu P.
1.2. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Đinh Hồ Hữu P Phúc cho gia đình NLQ1 lưu cư trên thửa 196 thời gian 06 tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
1.3. Ngay khi hết thời hạn 06 tháng lưu cư, buộc gia đình NLQ1 (gồm NLQ1, NLQ2, NLQ4, NLQ3) di dời một vách tol, một cửa nhôm nhà tắm, một cửa nhôm phòng ngủ và các tài sản khác trong nhà ra khỏi thửa đất số 196, tờ bản đồ số 21, diện tích đo thực tế là 67,lm2 theo các mốc 1, 2, 3, 4, 5 và 1 để giao đất cho anh Đinh Hồ Hữu P.
(Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, biên bản định gìá tài sản cùng ngày 09/5/2018, biên bản định giá tài sản ngày 29/6/2020; Sơ đồ đo đạc ngày 18/5/2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn N.
2.1. Buộc anh Đinh Hồ Hữu P hoàn trả tiền giá trị nhà còn lại và giá trị cát san lắp, tổng cộng là 49.611.997 đồng cho ông Nguyễn Văn N.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu của ông N yêu cầu anh P trả 51.920.000 đồng tiền cát san lấp và tiền bồi hoàn công sức giữ gìn đất 86.000.000 đồng cho ông N.
3. Án phí: Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Văn N.
Anh Đinh Hồ Hữu P phải chịu 2.480.600đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, số tiền anh P đã nộp theo 4.852.500 đồng theo biên lai thu số 02770 ngày 27/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C được trừ vào án phí anh P phải chịu. Anh P được hoàn lại 2.371.900 đồng.
4. Chi phí tố tụng khác: Buộc ông N phải trả số tiền 2.762.000đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản cho anh P.
5. Kể từ ngày bản án có hiệu lực (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
- Sau khi án sơ thẩm xử, ngày 29//7/2020 bị đơn ông Nguyễn Văn N, ngày 30/7/2020 người liên quan NLQ1 cùng kháng cáo yêu cầu xem xét lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
- Tại phiên tòa phúc thẩm:
+ Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn trả đất.
+ Bị đơn ông Nguyễn Văn N, người đại diện ủy quyền bà Đặng Thị Kim T vẫn giữ nguyên ý kiến không đồng ý giao đất theo yêu cầu nguyên đơn, yêu cầu sử dụng đất và trả giá trị đất theo giá Hội đồng định giá cấp sơ thẩm đã định, nếu phải trả đất ông N đồng ý giao nhà anh P sử dụng và yêu cầu anh P trả giá trị nhà và tiền san lấp cát độ cao 01m x đất 67,1m2 x giá 100.000đ/m3 cát, đồng thời yêu cầu trả công sức giữ gìn đất.
+ Người liên quan anh NLQ1 không đồng ý giao nhà mà yêu cầu được sử dụng nhà đến ngày 30/12/2021.
+ Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị chấp nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về số tiền bơm cát, độ cao 01m3 cát/ diện tích đất 67,1m2 x 100.000đ/m3 cát = 6.710.000đồng; các phần còn lại giữ nguyên án sơ thẩm.
+ Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung: Đề nghị chấp nhận 01 phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn N, sửa 01 phần án sơ thẩm về tiền san lấp cát.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phát biểu của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét ông Nguyễn Văn N kháng cáo không đồng ý trả đất mà yêu cầu được sử dụng diện tích đất 67,1m2 thuộc thửa 196, tờ bản đồ số 21 tọa lạc thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Xét thấy:
[1.1] Đất đang tranh chấp có nguồn gốc của bà Hồ Thị H, ông Hồ Hữu L là anh của bà H cho bị đơn là ông N ở nhờ trên diện tích đất thửa 196. Ngày 10/3/1992 bà H được cấp quyền sử dụng đất lần đầu diện tích 98m2, thuộc thửa 152, tờ bản đồ số 02. Đến tháng 09/2014 thửa đất 152 được cấp đổi thành thửa số 196, tờ bản đồ số 21, diện tích 64,7m2 do bà Hồ Thị H đứng tên quyền sử dụng đất.
[1.2] Ngày 31/7/2015 bà H chết, bà H không chồng, con; cha, mẹ đã chết; Hàng thừa kế thứ nhất của bà H không còn; hàng thừa kế thứ hai của bà H gồm các anh, em: Bà Hồ Thị A, bà Hồ Thị O, ông Hồ Hữu L (chết 2013), Hồ Hữu U (chết 1996); Hồ Hữu N (chết 1967).
Như vậy, hàng thừa kế thứ 2 của bà H chỉ có ông Hồ bà Hồ Thị A, Hồ Thị O. Tuy nhiên, bà A, bà O có ý kiến cho rằng bà H đã lập di chúc ngày 09/12/2014 thể hiện ý chí để lại thửa đất 196 cho anh P; các bà A, bà O cũng đồng ý với di chúc của bà H, để anh P được hưởng phần đất thửa 196, không yêu cầu hay tranh chấp gì trong vụ án này; đồng thời yêu cầu Tòa án không đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án. Do đó, có căn cứ xác định thửa đất 196 là di sản của bà H được cho anh P là phù hợp.
[1.3] Đối với ông Nguyễn Văn N thừa nhận ở nhờ trên thửa đất 196 của bà H từ năm 1976 (mặc dù người cho ở nhờ là ông Hồ Hữu L) nhưng xác định đây là đất bà H được cha mẹ để lại), đến năm 2017 thì ông N không ở trên đất mà căn nhà của ông N cho hộ anh NLQ1 thuê sử dụng, còn ông N đến ở với con gái tại một nơi ở khác. Từ đó cho thấy ông N không có nhu cầu sử dụng chỗ ở, đồng thời đất là do ông N ở nhờ nên việc ông N yêu cầu được tiếp tục sử dụng đất và trả giá trị cho anh P là không phù hợp nên không chấp nhận. Tòa sơ thẩm xử buộc ông N trả đất là có căn cứ.
[1.4] Khi giao đất cho anh P, trên đất có căn nhà của ông N, ông N đồng ý giao cho anh P sử dụng, anh P đồng ý trả giá trị nhà cho ông N theo giá Hội đồng định giá bằng số tiền 46.256.997đồng, việc này ông N cũng đồng ý. Tuy nhiên, phần đất trước khi ông N đến ở là đất trũng, ông N phải đầu tư bơm cát để xây nhà, việc này anh P cũng đồng ý. Đối với bị đơn ông N cho rằng chi phí bơm cát là 55.275.000 đồng, anh P không đồng ý. Tòa sơ thẩm không xem xét thẩm định tại chỗ đối với phần cát ông N đã đầu tư trên đất mà chỉ căn cứ vào lời thừa nhận của anh P để chấp nhận anh P trả chi phí bơm cát cho ông N 0,5m độ cao x 67,1m2 x 100.000đ/m3 = 3.355.000đồng và buộc anh P trả số tiền này là không phù hợp.
Tuy nhiên, tại phiên tòa người đại diện ủy quyền của ông N thay đổi kháng cáo, chỉ yêu cầu anh P trả chi phí đầu tư bơm cát độ cao 01m x 67,1m2 x 100.000đ/m3 = 6.710.000đồng, yêu cầu này anh P đồng ý và các bên không yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ đối với phần cát san lấp trên đất đang tranh chấp. Xét thấy, đây là sự thỏa thuận tự nguyện của các đương sự, sự tự nguyện này không trái đạo đức xã hội và phù hợp pháp luật nên Tòa chấp nhận. Do vậy, chấp nhận kháng cáo này của ông N, buộc anh P trả chi phí đầu tư bơm cát số tiền 6.710.000đồng.
[1.5] Ông N kháng cáo yêu cầu trả chi phí gìn giữ đất số tiền 86.000.000đồng. Xét thấy, ông N thừa nhận đất tranh chấp là ở nhờ của bà H, bà H di chúc để đất lại cho anh P; người ở nhờ là ông N đã sử dụng hưởng lợi từ phần đất này. Người cho ở nhờ là phía bà H hay anh P không giao cho ông N gìn giữ đất cũng như yêu cầu ông N trả bất cứ khoản chi phí nào, cho nên việc ông N yêu cầu áp dụng Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 để yêu cầu anh P trả chi phí gìn giữ làm tăng giá trị đất là không phù hợp nên không chấp nhận.
[2] Xét NLQ1 kháng cáo yêu cầu được ở căn nhà của ông N từ nay đến ngày 30/12/2021. Xét thấy:
Đất tranh chấp được xác định là của bà H cho ở nhờ, nay bà H đã lập di chúc cho anh P phần đất này. Trên đất có căn nhà của ông N, mặc dù hiện NLQ1 là người đang ở thuê căn nhà của ông N nhưng không trả tiền thuê (có thì đưa, không có thì thôi, ông N không đòi tiền thuê và không tính thời hạn thuê). Nay ông N cũng đồng ý giao nhà cho anh P và anh P trả giá trị căn nhà cho ông Phúc. Khi giao nhà, anh P cũng đồng ý cho anh NLQ1 được lưu cư trong hạn 06 tháng kể từ bản án có hiệu lực pháp luật là đã tạo điều kiện cho NLQ1 có thời gian tìm nơi ở mới, đồng thời tại Tòa án cấp sơ thẩm NLQ1 cũng đồng ý giao nhà và sẽ thỏa thuận với ông N hoặc anh P. Do vậy, việc NLQ1 yêu cầu được tiếp tục ở căn nhà của ông N (ông N đã đồng ý giao anh P) đến ngày 31/12/2021 là không có căn cứ nên không chấp nhận.
[3] Án phí: Do sửa 01 phần án sơ thẩm, nên sửa 01 phần án phí sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định, định giá cho phù hợp. Theo đó, án phí sơ thẩm và phúc thẩm ông Nguyễn Văn N là người cao tuổi, là đối tượng được miễn án phí nên ông N được miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết 326/2016 của UBTVQH. Anh P phải chịu án phí sơ thẩm đối với số tiền trả giá trị nhà và cát san lấp 52.966.997đồng x 5% = 2.649.000đồng.
Án phí phúc thẩm: NLQ1 phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[4] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị chấp nhận sự tự nguyện của anh P đồng ý trả thêm tiền cát san lấp cho ông N tổng cộng 6.710.000đồng, các phần còn lại giữ nguyên án sơ thẩm. Đề nghị này là phù hợp nên chấp nhận.
[12] Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định pháp luật và đề nghị chấp nhận 01 phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn N đối với số tiền cát san lấp, các phần khác giữ nguyên án sơ thẩm. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 148; khoản 1, 2 Điều 308; Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận 01 phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn N;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của NLQ1.
Sửa 01 phần bản án dân sự sơ thẩm số 35/2020/DS-ST ngày 16/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện C.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đinh Hồ Hữu P.
1.1. Buộc ông Nguyễn Văn N trả cho anh Đinh Hồ Hữu P diện tích đất 67,lm2 thuộc thửa 196, tờ bản đồ số 21 theo phạm vi các mốc 1 – 2 – 3 – 4 - 5 – 1; đất tọa lạc khóm Phú Mỹ Hiệp, thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp do bà Hồ Thị H đứng tên quyền sử dụng đất.
1.2. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Đinh Hồ Hữu P cho gia đình NLQ1 lưu cư trên thửa đất 196 thời gian 06 tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
1.3. Ngay khi hết thời hạn 06 tháng lưu cư, buộc hộ anh NLQ1 (gồm NLQ1, NLQ2, NLQ4, NLQ3) di dời một vách tol, một cửa nhôm nhà tắm, một cửa nhôm phòng ngủ và các tài sản là vật dụng gia đình của NLQ1 ra khỏi căn nhà kết cấu nền gạch men, mái ngói tây, vách tường + ván, cột gỗ .v.v… trên thửa đất số 196, tờ bản đồ số 21, diện tích 67,lm2 theo các mốc 1 – 2 – 3 – 4 - 5 – 1; tọa lạc khóm P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Đồng Tháp do bà Hồ Thị H đứng tên quyền sử dụng đất để giao nhà, đất cho anh Đinh Hồ Hữu P.
(Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 09/5/2018, sơ đồ đo đạc ngày 18/5/2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn N.
2.1. Công nhận sự thỏa thuận tự nguyện của anh P;
Buộc anh Đinh Hồ Hữu P hoàn trả tiền giá trị nhà và giá trị cát san lắp tổng cộng 52.966.997đồng cho ông Nguyễn Văn N.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu của ông N yêu cầu anh P trả 48.565.000đồng tiền cát san lấp và tiền bồi hoàn công sức giữ gìn đất 86.000.000 đồng.
3. Án phí sơ thẩm: Miễn tiền án phí cho ông Nguyễn Văn N.
Anh Đinh Hồ Hữu P phải chịu 2.649.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh P đã nộp 4.852.500đồng theo biên lai thu số 02770 ngày 27/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C. Số tiền còn lại hoàn trả cho anh P 2.203.500đồng.
4. Án phí phúc thẩm: Ông N không phải chịu;
NLQ1 phải chịu 300.000đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002961 ngày 06/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C (NLQ1 đã nộp xong).
5. Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá là 3.562.000 đồng (thẩm định đất 2.162.000 đồng, định giá 1.400.000 đồng), số tiền này anh P và ông N mỗi người phải chịu ½ (3.562.000đ : 2) = 1.780.100đồng. Trong đó, anh P đã tạm ứng 2.762.000đồng, ông N đã tạm ứng 800.000đồng nên ông N còn phải trả lại anh P số tiền 980.000đồng.
6. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 47/2021/DS-PT
Số hiệu: | 47/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về