TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 462/2023/DS-PT NGÀY 15/11/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 09 và 15 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 370/2023/TLPT-DS ngày 11 tháng 10 năm 2023 về “tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 84/2023/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai bị bị đơn ông Huỳnh Tấn N, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 470/2023/QĐPT-DS ngày 23 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1976; địa chỉ: Ấp T, thị trấn T, huyện T, thành phố Cần Thơ (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị M 1985; địa chỉ: B ấp T, thị trấn T, huyện T, thành phố Cần Thơ (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Huỳnh T N1 năm 1969; địa chỉ: A ấp T, thị trấn T, huyện T, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Ngô Thị Đ 1970; (có mặt)
3.2. Anh Huỳnh A Tnăm 1992; (có mặt)
3.3. Anh Huỳnh Vĩnh K 2001; (có mặt) Cùng địa chỉ: A ấp T, thị trấn T, huyện T, thành phố Cần Thơ 3.4. Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ; địa chỉ: ấp T, Khu H huyện T, thành phố Cần Thơ (vắng mặt) 4. Người kháng cáo: Ông Huỳnh T N2 bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày: Vào ngày 27/7/2018 ông Nguyễn Hoàng P1 được tài sản bán đấu giá do Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai phát mãi là quyền sử dụng đất số BC634306, thửa đất số 214, tờ bản đồ số 08 cấp ngày 14/12/2010; Quyền sử dụng đất số BC634307, thửa đất số 215, tờ bản đồ số 08 cấp ngày 14/12/2010 với tổng diện tích 1.876 m2, cùng với công trình xây dựng trên đất là 01 căn nhà cấp 4 diện tích 100,5 m2 và cây trồng trên đất, tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T, TP C N3 tên. Toàn bộ tài sản nêu trên ông mua với giá 285.605.000 đồng. Đến ngày 05/11/2021 ông Nguyễn Hoàng P2 cấp 03 giấy chứng nhận QSD đất như sau: Giấy chứng nhận QSD đất số DC 748332, thửa số 707, diện tích 245,1 m2. Giấy chứng nhận QSD đất số DC 748331, thửa số 708, diện tích 287,5 m2. Giấy chứng nhận QSD đất số DC 748333, thửa số 709, diện tích 767,4 m2. Tất cả 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Sở T3cấp ngày 05/11/2021 do ông Nguyễn Hoàng P3.
Sau khi hoàn thành các thủ tục của người trúng đấu giá tài sản, thấy gia đình ông N4 chủ động di dời chỗ ở, gây khó nên ông cho thêm ông N5 đồng để giao tài sản, ông N6 đồng ý. Ông đã đóng 16 trụ bê tông và rào lưới B40 xung quanh đất, được một thời gian thì giữa năm 2019 ông N1 cục Thi hành án đòi tiền và được trả lời là số tiền bán đấu giá tài sản đã thi hành cho các Bản án, Quyết định. Kể từ đó ông N8 xuyên gây sự, tự ý tháo dở hàng rào và chiếm sử dụng đất. Ông cũng đã báo chính quyền địa phương xuống làm việc nhưng ông N9 không chấm dứt hành vi của mình. Đến đầu năm 2022 anh trai của ông N2 ông Huỳnh Thanh H ông N6 tự ý chôn cất trên đất và chiếm luôn toàn bộ phần đất nêu trên. Ông P3 đến báo với chính quyền địa phương về việc ông N10 ý cho chôn cất, sau đó Ủy ban nhân dân thị trấn T làm việc và lập biên bản ngày 01/3/2022 nhưng ông N9 cố ý cho chôn cất và làm nhà mồ.
Nay nguyên đơn yêu cầu ông Huỳnh T N11 những người liên quan phải giao phần đất tại thửa số 707, 708, 709 có diện tích 1.159,5 m2 theo Bản trích đo địa chính số 375/TTKTTNMT ngày 24/4/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố c nhận QSD đất do ông Nguyễn Hoàng P3, đất tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T Đối với số cây trồng còn lại lúc trúng đấu giá và giao đất là của nguyên đơn theo Quyết định số 07/QĐ-CCTHADS ngày 01/4/2019 về việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải giao các tài sản này cho nguyên đơn.
Đối với cây trồng là M1 thì ông N10 trồng thêm vào năm 2021, chuồng gà, ngôi mộ và nhà mồ của ông Huỳnh T1 H1 chôn cất vào tháng 2/2022 vì ông N10 ý trồng cây và cho chôn cất thì phải tự di dời.
Bị đơn trình bày: Ông đứng tên và sử dụng phần đất tại thửa 214, 215, tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T vay tiền của ông Lê Phước Chí L L1 giữ của ông 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vào năm 2016 ông Linh kiện ông ra Tòa án và ông có đến Tòa án huyện T để giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản với ông Lê Phước C L2 một thời gian Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai có mời ông đến làm việc, ông không thống nhất phương án trả nợ. Sau đó, ông đi làm Công ty thì Chi cục Thi hành án tự kê biên phát mãi lấy đất của ông bán cho ông P Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Lai tự ý phát mãi bán tài sản của ông là việc của Thi hành án, ông thiếu nợ bên ngoài thì ông tự trả nợ, nhà và đất của ông thì ông sử dụng. Ông không đồng ý với yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng P4 cây trồng, ngôi mộ và nhà mộ của ông Huỳnh T1 H2 anh ruột của ông được chôn cất trên đất của ông, ông không đồng ý với yêu cầu của ông P Việc Chi cục Thi hành án phát mãi bán tài sản của ông là không đúng, ông không có ký tên vào các biên bản của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai. Ông chỉ trình bày như vậy, không có yêu cầu giám định chữ ký.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Đ1 Huỳnh ATtrình bày: Thống nhất trình bày của ông N12 đồng ý với yêu cầu của ông PBà Đ1 nhận 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng) của ông P5 tiền hỗ trợ di dời, chứ không phải bồi thường tiền đất.
- Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai, có ông Đỗ Ngọc N2: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai có nhận được đơn yêu cầu thi hành án của ông Lê Phước Chí L1 Huỳnh Kim P6 với người bị thi hành án là ông Huỳnh T N11 bà Ngô Thị Đ2 cục Thi hành án thụ lý hồ sơ và tiến hành xác minh tài sản thi hành án thì người bị thi hành án có tài sản là quyền sử dụng đất tại 02 thửa đất 214, 215 tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T thi hành án tiến hành làm các thủ tục theo quy định của Luật thi án Dân sự, đã cưỡng chế kê biên phát mãi 02 thửa đất trên đề thi hành án. Người trúng bán đấu giá tài sản thi hành án là ông Nguyễn Hoàng P5 P7 thực hiện nghĩa vụ tài chính nên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 24/4/2019 Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai tiến hành giao tài sản cho người mua trúng đấu giá tại 02 thửa đất trên, phần còn lại hộ ông N14 1lý sử dụng, đồng thời ông P8 hỗ trợ ông N11 bà Đ3 tiền 71.395.000 đồng.
Chi cục thi hành án Dân sự huyện Thới Lai cưỡng chế kê biên, phát mãi bán đấu giá tài sản là đúng theo quy định của Luật thi án Dân sự. Phía bị đơn không thực hiện giao đất mà cố tình chiếm sử dụng là vi phạm pháp luật. Yêu cầu bị đơn phải thực hiện bàn giao quyền sử dụng đất và tài sản trên đất cho nguyên đơn.
Tại bản án số 84/2023/DS-ST ngày 18 tháng 07 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai đã tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng P Buộc ông Huỳnh T N15 Ngô Thị Đ Huỳnh Anh T Huỳnh V giao cho ông Nguyễn H1 P9 sử dụng đất tại các thửa 707, 708, 709; diện tích 1.159,2 m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố T3 cấp ngày 05/11/2021 do ông Nguyễn Hoàng P3. Theo Bản trích đo địa chính số 375/TTKTTNMT ngày 24/4/2023 của Trung tâm K2 Buộc ông Huỳnh T N15 Ngô Thị Đ Huỳnh Anh T Huỳnh Vĩnh K di dời 126 cây Mít loại C, 05 cây Mít loại B ra khỏi phần đất của ông Nguyễn H1 P10 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phải tháo dở chuồng gà có diện tích 106,7 m2 ra khỏi phần đất của ông Nguyễn HI PlOcấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Di dời ngôi mộ và nhà mồ của ông Huỳnh T1 H3 khỏi phần đất của ông Nguyễn H1 P10 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm, chi phí đo đạc, thẩm định và quyền kháng cáo của các đương sự. Bản án nêu trên đã bị bị đơn ông Huỳnh Tấn N và Viện kiểm sát huyện Pkháng nghị.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện không rút đơn kiện, người kháng cáo không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và không cung cấp chứng cứ mới.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Trong giai đoạn phúc thẩm Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về Thụ lý xét xử phúc thẩm (Điều 285); Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm (Điều 286); Cung cấp tài liệu, chứng cứ (Điều 287); Triệu tập những người tham gia tố tụng (Điều 294).
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa: Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về việc giải quyết vụ án dân sự:
Về hình thức kháng cáo: Ngày 26/07/2023 bị đơn ông Huỳnh Tấn N trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem là hợp lệ.
Ngày 31/7/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới lai thành phố Cần Thơ kháng nghị toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 84/2023/DS-ST ngày 18/07/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai thành phố Cần Thơ đúng theo quy định của BLTTDS năm 2015.
Về nội dung kháng cáo: Xét về nguồn gốc thửa đất các thửa đất tại thửa 214, 215, tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T N3 tên.
Ngày 27/7/2018 ông Nguyễn Hoàng P6 mua được tài sản bán đấu giá là quyền sử dụng đất tại các thửa đất số 214, thửa đất số 215, tờ bản đồ số 08 cấp ngày 14/12/2010 với tổng diện tích 1.876 m2, cùng với công trình xây dựng trên đất là 01 căn nhà cấp 4 diện tích 100,5 m2 và cây trồng trên đất, tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T, TP C N3 tên là tài sản được Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Lai kê biên để đảm bảo việc thi hành án của ông Huỳnh T N16 bộ tài sản nêu trên được nguyên đơn mua với giá 285.605.000 đồng. Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Lai tiến hành thủ tục kê biên tài sản của ông Huỳnh Tấn N3 đảm bảo thi hành án và tiến hành bán đấu giá đúng quy định nên đến ngày 05/11/2021 ông Nguyễn Hoàng P6 được cấp 03 GCNQSDĐ tại các thửa đất số 708, diện tích 287,5 m2; thửa đất số 707, diện tích 245,1 m2; thửa đất số 709, diện tích 767,4 m2.
Vào năm 2018 ông Nguyễn Hoàng P7 trúng đấu giá tài sản do Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai phát mãi lả quyền sử dụng đất sổ BC634306, thửa đất số 214, tờ bản đồ số 08 cấp ngày 14/12/2010; Quyền sử dụng đất số BC634307, thửa đất số 215, tờ bản đồ số 08 cấp ngày 14/12/2010, cùng với công trình xây dựng và cây trông trên đất, tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T, TP C N3 tên. ông P8 hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính của người trúng đấu giá tài sản. Đến ngày 05/11/2021 ông Nguyễn Hoàng P9 cấp 03 GCNQSDĐ gồm: GCNQSDĐ số DC 748332, thửa số 707, diện tích 245,1 m2; GCNQSDĐ số DC 748331, thửa số 708, diện tích 287,5 m2 và GGCNQSDĐ số DC 748333, thửa sổ 709, diện tích 767,4 m2. Tất cả 03 GCNQSDĐ được Sở T3 cấp ngày 05/11/2021 do ông Nguyễn Hoàng P3.
Sau khi trúng đấu giá và cắm trụ đá ông Nguyễn H1 P7 hỗ trợ di dời cho ông N4 tiền 71.395.000 đồng. Nay bị đơn không thực hiện giao đất cho nguyên đơn mà cố tình bao chiếm sử dụng là vi phạm pháp luật. Yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng P10 đơn ông Huỳnh Tấn N5 phải thực hiện bàn giao quyền sử dụng đất và tài sản trên đất cho ông P11 có cơ sở.
Xét về trình tự, thủ tục kê biên, cưỡng chế, bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai đã thực hiện đúng theo quy định của của Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản của Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản đã thực hiện đúng quy định của Luật đấu giá tài sản năm 2016. Do đó, ông Nguyễn Hoàng P11 GCNQSDĐ là đúng theo quy định của pháp luật. Khi được cấp GCNQSDĐ ông P7 cắm 16 trụ bê tông giáp ranh với phần đất còn lại của ông N19 ông N4 có ý kiến gì. Đến năm 2019 ông N20 nhổ các trụ bê tông, ngăn cản ông P13 sử dụng đất, đó là hành vi ngang nhiên cản trở việc sử dụng đất hợp pháp của nguyên đơn và là hành vi xem thường pháp luật.
Trong quá trình nguyên đơn sử dụng đất thì bị đơn là ông Huỳnh Tấn N6, trồng thêm cây, xây chuồng gà trên phần đất tranh chấp nêu trên là trái quy định của pháp luật. Nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải di dời cây trồng là số cây Mít do bị đơn trồng năm 2021, chuồng gà là có căn cứ chấp nhận.
Đối với việc ông Nguyễn Hoàng P yêu cầu bị đơn ông Huỳnh T N22 dời ngôi mộ và nhà mồ của ông Huỳnh Thanh H2(anh của bị đơn) được chôn cất vào tháng 2/2022 trên thửa đất số 709 tờ bản đồ số 08 do nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng P3 sử dụng, phần mộ và nhà mồ có diện tích 17.39m2: Xét thấy việc nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận hợp pháp vào ngày 05/11/2021, đến tháng 02 năm 2022 bị đơn chôn cất ông Huỳnh T1 H5 phần đất thuộc thửa 709 của nguyên đơn, mặc dù phần đất của bị đơn giáp ranh với phần đất thuộc thửa 709 của nguyên đơn, nên bị đơn phải biết việc chôn cất ông Huỳnh T1 H5 phần đất của nguyên đơn là không phù hợp, do đó lỗi thuộc về phía bị đơn. Nhưng xét về phong tục tập quán tại địa phương, ông H1 chôn cất vào tháng 2/2022 tính đến nay là khoảng 01 năm 06 tháng, ông H2 người thân của bị đơn, bị đơn không đồng ý di dời thì rất khó thực hiện việc di dời, do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không có cơ sở chấp nhận.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 84/2023/DS-ST ngày 18/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai tuyên:
+ Buộc ông Huỳnh T N15 Ngô Thị Đ4, ông Huỳnh A T1 Huỳnh Vĩnh K1 giao cho ông Nguyễn H1 P9 sử dụng đất tại các thửa có diện tích 1.159,2m2, GCNQSDĐ được Sở tài nguyên và môi trường thành phố T3 cấp ngày 05/11/2021 do ông Nguyễn Hoàng P3. Theo bản trích đo địa chính số 375/TTKTTNMT ngày 24/4/2023 của Trung tâm K2 là có cơ sở chấp nhận.
+ Buộc ông Huỳnh T N15 Ngô Thị Đông Huỳnh A Huỳnh Vĩnh K1 di dời 126 cây Mít loại C, 05 cây Mít loại B ra khỏi phần đất của ông Nguyễn Hoàng P12 tháo dở chuồng gà có diện tích 106,7m2 ra khỏi phần đất của ông Nguyễn Hoàng P đã được cấp GCNQSDĐ là có cơ sở chấp nhận.
Tuy nhiên cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Huỳnh T N23 di dời ngôi mộ và nhà mồ của ông Huỳnh T1 H3 khỏi phần đất của ông Nguyễn Hoàng P đã được cấp GCNQSDĐ là chưa phù hợp với phong tục tập quán và gây khó khăn trong giai đoạn thi hành án. Hơn nữa, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thới Lai không đưa bà Nguyễn Thị Đ2 và các con là H5 TT2 Huỳnh Thế V là vợ con của ông Huỳnh T1 H6 tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng theo quy định tại Khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự hủy bản án sơ thẩm số 84/2023/DS-ST ngày 18/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai giao cấp sơ thẩm giải quyết theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Huỳnh Tấn N5, theo đơn kháng cáo và lời trình bày của ông N24phiên tòa ông N25rằng, phần đất tranh chấp ông đã sử dụng ổn định trồng cây lâu năm, chăn nuôi từ trước đến nay đồng thời, về mặt tâm linh trên phần đất này có phần mộ và nhà mồ của anh ông nên ông không bán và cũng không giao đất. Trường hợp ông P15 nhận đất thì phải giao cho ông thêm số tiền 350.000.000 đồng và trừ phần đất nhà mồ ra với diện tích ngang 06m dài 21m.
[2] Xét thấy, về nguồn gốc quyền sử dụng đất cùng với công trình xây dựng và cây trồng trên đất đang tranh chấp, tọa lạc tại ấp T, thị trấn T, huyện T, TP C N3 tên theo giấy chứng nhận số BC634306, thửa đất số 214, tờ bản đồ số 08 cấp ngày 14/12/2010; Quyền sử dụng đất số BC634307, thửa đất số 215, tờ bản đồ số 08 cấp ngày 14/12/2010. Tuy nhiên, quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nêu trên vào năm 2018 Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Lai đã phát mãi để thi hành theo các Quyết định thi hành án số 156, 157 cùng ngày 04/11/2016 của Chi cục thi hành án huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ và ông Nguyễn Hoàng P7 trúng đấu giá tài sản nêu trên.
[3] Căn cứ vào Biên bản làm việc ngày 23/7/2019 về việc giải quyết thi hành án thì ông Huỳnh T N11 bà Ngô Thị Đ6 định, ông bà đồng ý và thống nhất giao cho ông Nguyễn Hoàng P13 đất cây lâu năm theo hiện trạng, vị trí và kích thước đo đạc được thể hiện tại Biên bản về việc giao, nhận tài sản bán đấu giá cùng ngày 23/7/2019. Đồng thời tại phiên tòa ông N7 Đ7 thừa nhận đã nhận số tiền ông P17 trợ di dời là 71.395.000 đồng và ông bà đã bàn giao đất cho ông P14 ông P7 trồng trụ đá làm hàng rào, sau đó ông N26 chiếm lại vì cho rằng sau khi phát mãi tài sản để thi hành án thì ông không còn nhận được số tiền ngoài số tiền hỗ trợ di dời từ ông P15 những cơ sở trên cho thấy ông N8 biết việc quyền sử dụng đất đã bị phát mãi và ông bà đã giao quyền sử dụng đất bán đấu giá cho ông P19 đó ông N25 rằng không biết việc bán đấu giá và không đồng ý bán đất là không có căn cứ. Ông P11 người xác lập quyền sử dụng đất thông qua bán đấu giá và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông yêu cầu ông N22 dời cây trồng, vật kiến trúc trả lại quyền sử dụng đất cho ông là có cơ sở. Đồng thời, tại thời điểm ông N27 giao tài sản bán đấu giá cho ông P20 không thể hiện trên đất có phần nhà mồ. Do đó, ông N9 C yêu cầu ông P21 trả thêm số tiền 350.000.000 đồng và trừ lại phần đất có nhà mồ là không có căn cứ;
[4] Ngoài ra, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện ông N27 giao đất cho ông P13 ngày 23/7/2019. Do đó, tại thời điểm này ông phải biết quyền sử dụng phần đất trên không còn thuộc quyền sử dụng của ông nhưng ông vẫn cố tình tái chiếm là xâm phạm đến quyền sở hữu, sử dụng tài sản của ông Nguyễn Hoàng P16, tại phiên tòa ông N28 nhận quyền sử dụng đất của ông chỉ bị phát mãi một phần, phần còn lại hơn 2000m2 nằm liền kề với đất phát mãi cho ông P Năm 2022 anh của ông N2 ông Huỳnh Thanh H3 ông N4 an táng ở đất nhà mà chỉ đạo cho gia đình an táng ông H7 phần đất của ông P Tại thời điểm đó, ông P có báo với chính quyền và chính quyền địa phương đã lập biên bản sự việc nhưng ông N29 gia đình vẫn an táng ông H5 phần đất của ông P23 thấy hành vi này là cố tình và sai trái. Do đó, ông N23 chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình trong việc di dời phần mộ của ông H3 khỏi phần đất của ông P Từ những cơ sở trên cho thấy Bản án sơ thẩm đã tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Ông N kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên kháng cáo của ông không có cơ sở chấp nhận.
[5] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai: Như đã nhận định trên tại thời điểm an táng ông H, ông N6 biết ông P24 lập quyền sử dụng đất. Hơn nữa ông P7 tiến hành ngăn cản, báo chính quyền địa phương, do đó ông N30 như người thân ông H8 phải biết hành vi an táng ông H5 đất của ông P11 sai trái và không hợp pháp nhưng ông N9 cố tình chỉ đạo thực hiện vì vậy ông N23 có trách nhiệm thực hiện việc di dời. Mặt khác, chưa có quy định xác định phần mộ là tài sản do đó, việc không đưa vợ và con ông H tham gia tố tụng có thiếu sót nhưng không làm ảnh hưởng đến nội dung giải quyết vụ án vì vậy không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm.
[6] về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của ông N4 được chấp nhận nên ông N23 chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Ông N31 khấu trừ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0005268 ngày 26/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Lai thành án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 12, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng nghị số 05/QĐ - VKS - DS ngày 31/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Huỳnh T N18.
3. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 84/2023/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
3.1 Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng P Buộc ông Huỳnh T N15 Ngô Thị Đ Huỳnh Anh T Huỳnh V giao cho ông Nguyễn H1 P9 sử dụng đất tại các thửa 707, 708, 709; diện tích 1.159,2 m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố T3 cấp ngày 05/11/2021 do ông Nguyễn Hoàng P3. Theo Bản trích đo địa chính số 375/TTKTTNMT ngày 24/4/2023 của Trung tâm K2 Buộc ông Huỳnh T N15 Ngô Thị Đ Huỳnh Anh T Huỳnh Vĩnh K di dời 126 cây Mít loại C, 05 cây Mít loại B ra khỏi phần đất của ông Nguyễn H1 P10 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phải tháo dở chuồng gà có diện tích 106,7 m2 ra khỏi phần đất của ông Nguyễn H1 P10 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Di dời ngôi mộ và nhà mồ của ông Huỳnh T1 H3 khỏi phần đất của ông Nguyễn H1 P10 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3.2 Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Hoàng P17 lại 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005645 ngày 07/10/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Lai. Ông Huỳnh T N23 chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
3.3 Về chi phí đo đạc, trích đo địa chính: Ông Huỳnh T N23 trả lại cho ông Nguyễn Hoàng P18 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng).
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông N23 chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Ông N31 khấu trừ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0005268 ngày 26/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Lai thành án phí.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 462/2023/DS-PT
Số hiệu: | 462/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về