Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 44/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 44/2023/DS-ST NGÀY 03/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 3/8/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2022/TLST-DS ngày 12/12/2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1044/2023/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 4 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: ông Cao Tiến T, sinh năm 1964 và bà Cao Thị D, sinh năm 1968; địa chỉ: thôn T, xã H, huyện M, tỉnh Q. Ông T, bà D có mặt.

Đại diện theo ủy quyền của bà D: ông Đinh Văn L, trú tại Tổ D phố m, thị trấn Q, huyện M, tỉnh Q, vắng mặt.

- Bị đơn: Trường Tiểu học B, xã D, huyện M, tỉnh Q do ông Đinh Thanh D, Hiệu trưởng đại diện theo pháp luật, có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Ủy ban nhân dân tỉnh Q do ông T - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, đại diện theo pháp luật. Có đơn đề nghị được vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND tỉnh Q: ông Hoàng Quốc V- Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q, có đơn đề nghị xử vắng mặt.

+ Ủy ban nhân dân xã D, huyện M, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn ông Cao Tiến T, bà Cao Thị D trình bày:

Năm 2001, bà D được Phòng Giáo dục huyện H phân công dạy tại điểm trường Mần non xã D .Thời điểm đó rất khó khăn, nhà trường thiếu cơ sở vật chất, như văn phòng, nơi ăn ở cho giáo viên nên bà D đã trình bày với UBND xã D, và Trưởng Bản H cho cải tạo phần diện tích đất hiện có tranh chấp để làm nhà ở, tiện cho việc dạy học. Được sự nhất trí của chính quyền địa phương , bà D và ông T (chồng bà D) đã san lấp mặt bằng và dựng nhà để ở, trồng các cây ăn quả trên đất. Hiện nay số cây này đã trở thành cây cổ thụ. Quá trình sử dụng đất không có tranh chấp. Tuy nhiên năm 2009 Ủy ban nhân dân tỉnh Q đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trưởng Tiểu học D có chồng lên một phần đất mà gia đình bà D đã sử dụng từ năm 200, diện tích khoảng 417,5 m2. Năm 2015 khi bà D đến UBND xã D để làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới phát hiện đất của bà đang sử dụng có 1 phần thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho trường. Vì vậy bà làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Q giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 22, tờ bản đồ số 10, địa chỉ: bản H, xã D, huyện H, tỉnh Q do UBND tỉnh Q cấp cho trường Tiểu học D và yêu cầu Trường Tiểu học D trả lại cho gia đình bà toàn bộ diện tích đất 417,4 m2 Bị đơn Trường Tiểu học B: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án không gửi văn bản ghi ý kiến về yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn. Tuy nhiên, tại buổi hòa giải tranh chấp đất đai cơ sở (xã D) ngày 26/7/2022 ông Đinh Thanh D, Hiệu trưởng thay mặt ban giám hiệu nhà trường trình bày: Ông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường chỉ tiếp nhận tài sản của nhà trường, trong đó có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 22, tờ bản đồ số 10 với diện tích 2.853,6 m2. Với quyền hạn Hiệu trưởng chỉ có quyền tiếp nhận, không có quyền sang nhượng trả lại phần đất theo yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: UBND tỉnh Q không có văn bản ghi ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND tỉnh Q đề nghị giữa nhà trường và hộ ông T, bà D hòa giải vì năm 2018, khi thực hiện đo vẽ chỉnh lý bản đồ địa chính thì ranh giới thửa 22 và 25 là một đường thẳng và Hiệu trưởng nhà trường đã xác định lại hiện trạng sử dụng đất của nhà trường. Bản đồ địa chính năm 2018 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q phê duyệt năm 2018.

Những người làm chứng cho quá trình sử dụng đất của bà D:

+ Ông Đinh Xuân H nguyên Bí thư Đảng ủy xã D năm 2003- 2010 trình bày: Mãnh đất hiện tại bà Cao Thị D đẫ ở trước khi ông lên làm Bí thư xã D. Sau đó có dự án của huyện đầu tư xây dựng trường, xây dựng nhà công vụ cho gióa viên, ông đã có ý kiến khuôn viên đất xây dựng trường từ hàng cây của vườn nhà bà D xuống đến nhà văn hóa của bản. Cụ thể diện tích cấp cho nhà trường thì ông không rõ nhưng khi xây dựng trường, xây dựng nhà công vụ cho gióa viên thì ông đã cùng UBND xã D đã thống nhất quy hoạch khuông viên cho xây dựng trường. Ông xác nhận bà Cao Thị D đã ở trước khi xây dựng trưởng Bản H.

+ Bà Nguyễn Thị Thu H, Hiệu trưởng trường Mầm Non D trình bày bà Cao Thị D là giáo viên mầm non bản H xã D từ năm 2000. Vườn cây phía sau nhà gỗ của bà D đến giáp suối là do cô D trồng khi lên sinh sống tại bản H. Bà xin cam đoan những lời trình bày là đúng sự thật, nếu sai chịu trách nhiệm trước pháp luật.

- Ủy ban nhân dân xã D quá trình đối thoại ngoài Tòa án có ý kiến: Trong sổ địa chính của xã D lập ngày 15/10/2007 thì thửa đất số 25 tờ bản đồ số 10 quy chủ là Cao Tiến T với diện tích 314,2 m2. Đơn khởi kiện của bà Cao Thị D cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Trường tiểu học D (điểm trường Hà Vy), huyện H đã cấp chồng lên diện tích đất của bà D là 314,2 m2 là không có cơ sở vì hiện tại bà Cao Thị D chưa được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không có căn cứ xác định.

Ngày 30/3/2023, theo yêu cầu của người khởi kiện, Tòa án nhân dân tỉnh Q đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với thửa đất đang tranh chấp.

Kết quả như sau: Theo nguyên đơn dẫn đạc thì thửa đất của nguyên đơn là các điểm: 2-3-4-5-6-7-2 (có sơ đồ kèm theo). Theo Trường tiểu học D thì diện tích đất của trường theo giấy chứng nhận cấp năm 2009.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 08/6/2023, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án chấp nhận các yêu cầu khởi kiện. Ông Cao Tiến T cho rằng năm 2007, khi đo vẽ bản đồ địa chính liên quan đến thửa đất gia đình ông sử dụng ông không ký kết quả trích đo yêu cầu giám định chữ ký. Tòa án tạm ngừng phiên tòa để giám định theo yêu cầu của nguyên đơn. Ngày 26/6/2023, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết trong phiếu giao nhận diện tích năm 2007. Tại kết luận số 748/KL-KTHS ngày 07/7/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Q kết luận chữ ký dạng chữ viết “T”, chữ viết Cao Tiến T trên phiếu giao nhận diện tích ngày 1/5/2007 và chữ ông T ký để so sánh là do một người viết ra.

- Đại diện theo pháp luật của bị đơn trình bày: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Trường tiểu học D (điểm trường Hà Vy) đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Q cấp đúng thủ tục, trình tự quy định. Việc ông Đinh Thanh Lịch - nguyên Hiệu trưởng nhà trường ký vào phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất vào ngày 30/7/2018 để xác định ranh giới của nhà trường là không đúng. Vì vậy đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp Ủy ban nhân dân tỉnh Q đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.

Ngày 10/7/2023, Sau khi có kết quả giám định, Tòa án ra thông báo tiếp tục phiên tòa. Tuy nhiên phía người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND tỉnh Q cũng như phía bị đơn không nhận được thông báo của Tòa nên Tòa hoãn phiên tòa và mở lại phiên tòa vào ngày 3/8/2023 với thành phần hội đồng xét xử mới vì Hội thẩm xét xử ngày 08/6/2023 không thể tham gia phiên tòa được. Tại phiên tòa ngày 3/8/2023, bà D ông T trình bày kết quả trích đo năm 2018 được gia đình bà và nhà trường xác nhận là phù hợp với hiện trạng sử dụng, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện và công nhận ranh giới theo bản đồ 2018. Bà tự nguyện di dời các tài sản của bà gồm một nhà gỗ tạm đã cũ 9 mét vuông và 1 mái lợp bia rô xi măng sát nhà gỗ to. Sỡ dĩ trước đây ông T kí vào kết quả trích đo năm 2007 vì thiếu hiểu biết, nghĩ là ký vào để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên thực tế thì gia đình đã trồng cây cối ở phái sau nhà gỗ to từ năm 2001.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục theo đúng quy định;

+ Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho Trường tiểu học D để cấp lại theo đúng hiện trạng sử dụng. Bà D có quyền đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp đất đai và yêu cầu huỷ quyết định cá biệt trong vụ án dân sự (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nên Toà án nhân dân tỉnh Q thụ lý giải quyết theo khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 34, Điều 37 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 là đúng thẩm quyền.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị D, ông Cao Tiến T, Hội đồng xét xử thấy: Ngày 28/7/2009, Trường Tiểu học D được Ủy ban nhân dân tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 22, tờ bản đồ số 10, diện tích 2.853,6 m2, địa chỉ: bản H, xã D, huyện H, tỉnh Q, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: T03560. Kiểm tra hồ sơ địa chính năm 2007 thấy kết quả trích đo thửa đất đã được ông T và trường tiểu học D ký xác nhận. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trường Tiểu học D là có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, theo bà D sở dĩ gia đình ký vào phiếu trích đo vì do nhận thức hạn chế, nghĩ ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ký chứ không hiểu được ranh giới cụ thể như thế nào. Căn cứ vào kết quả thẩm định tại chỗ, lời trình bày của những người làm chứng thấy rằng trên phần đất UBND tỉnh Q cấp cho nhà trường tiểu học D năm 2009 có cây cối của gia đình bà D trồng năm 2001. Việc bà D trình bày không hiểu khi ký vào kết quả trích đo năm 2007 là có thật. Quá trình đo vẽ lập bản đồ địa chính năm 2007 những người sử dụng đất đã dẫn đạc không chính xác dẫn đến việc cấp đất sai hiện trạng sử dụng. Mặt khác, giữa phần diện tích bà D sử dụng từ sau nhà gỗ đến giáp suối nước và đất nhà trường sử dụng có hàng rào tồn tại do nhà trường rào. Năm 2018, Trường Tiểu học bãi Dinh và bà D đều xác định lại đúng hiện trạng sử dụng đất thực tế giữa hai bên từ trước đến nay. Bản đồ đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Q phê duyệt năm 2018. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Trưởng Tiều học D tại thửa đất số 22, tờ bản đồ số 10, số vào số cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất T03560 ngày 28/7/2009 để cấp lại đúng hiện trạng sử dụng theo sổ địa chính và sổ mục kê đất đai, bản đồ địa chính đã được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Q phê duyệt ngày 06/12/2022 (điểm 1, 13,12, 6, 14) theo sơ đồ.

Phần diện tích từ điểm 8,9,10,11,14 thuộc thửa đất số 25, tờ bản đồ số 10 xã D theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2022.

Trường Tiều học D xã D có nghĩa vụ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp lại giấy chứng nhận đúng hiện trạng sử dụng.

Bà D, ông T có quyền thực hiện việc kê khai đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật.

[2.2] Đối với phần tài sản cây cối khác của bà D trồng nằm ngoài diện tích trích đo thửa 25, tờ bản đồ số 10 bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2022 (gồm 1 số cây cối và nhà gỗ tạm đã cũ rộng 09 m2, 01 mái lợp bia rô xi măng sát nhà gỗ to bà D cam kết tự nguyện tháo dỡ, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và giám định chữ ký hét 11.660.000 đồng bà D, ông T tự nguyện chịu. Bà D tạm nộp 15.000.000 đồng, trả tại phiên tòa cho bà D 3.340.000 đồng.

[4] Về án phí: do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần bên mỗi bên phải chịu một nửa án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, bà D tự nguyện chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 34, Điều 37 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 10,49,50,52,105,107, 123 Luật đất đai 2003 và các Điều 26, 99, 100,166,170, 202, 203 Luật đất đại 2013, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Cao Tiến T, bà Cao Thị D, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 22, tờ bản đồ số 10, diện tích 2.853,6 m2, địa chỉ: bản H, xã D, huyện H, tỉnh Q, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: T03560 ngày 28/7/2009 do Ủy ban nhân dân tỉnh Q cấp cho Trường tiểu học D để cấp lại đúng hiện trạng sử dụng từ các điểm 1, 13, 12, 6, 14 trên sơ đồ là một phần không thể thiếu của bản án. Diện tích từ điểm 8, 9, 10, 5, 6, 14 trên sơ đồ thuộc thửa 25, tờ bản đồ số 10 xã D. Bà D ông T có quyền kê khai đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 25, tờ bản đồ số 10, bản đồ địa chính được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q phê duyệt tháng 12/2022 theo đúng quy định của pháp luật.

Trường Tiểu học D xã D có nghĩa vụ liên hệ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

Bà D có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời các tài sản của mình nằm ngoài thửa 25, tờ bản đồ số 10 xã D, bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2022 theo cam kết tự nguyện của bà tại phiên tòa.

2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và giám định chữ ký chữ viết hết 11.660.000 đồng. Ông Cao Tiến T, bà Cao Thị D tự nguyện chịu số tiền này. Bà đã nộp tạm ứng 15.000.000 đồng. Trả lại tại phiên tòa cho bà D số tiền 3.340.000 đồng.

3. Về án phí: Ông Cao Tiến T, bà Cao Thị D tự nguyện chịu án phí đân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được trừ vào biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005169 ngày 08/12/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Q.

4. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án của Toà án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 44/2023/DS-ST

Số hiệu:44/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về