TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 41/2024/DS-PT NGÀY 01/03/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 01/03/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 276/2023/TLPT-DS ngày 24/11/2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 26/2024/QĐ-PT ngày 12/01/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2024/QĐ-PT ngày 30/01/2024 giữa:
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1952 (có mặt) và ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1942 (vắng mặt); Ông T ủy quyền cho bà Nguyễn Thị L (có mặt).
Đều có địa chỉ: thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà L, ông T: Luật sư Nguyễn Trọng H (vắng mặt), Luật sư Nguyễn Tiến H1 (có mặt) - Công ty L1, Đoàn Luật sư thành phố H.
Địa chỉ: tầng B, tòa nhà I, số B, đường Đ, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội.
Bị đơn: bà Dương Thị H2, sinh năm 1966 (có mặt) Địa chỉ: thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Dương Thị Đ, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
2. UBND huyện L do ông Nguyễn Văn Q - Chuyên viên phòng Tài nguyên và môi trường huyện L đại diện theo ủy quyền (xin vắng mặt).
3. UBND xã T do ông Trần Duy Đ1 - Chức vụ Chủ tịch UBND xã T đại diện (vắng mặt).
Người kháng cáo: nguyên đơn - bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Thành T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn - bà Nguyễn Thị L trình bày: năm 2004 vợ chồng bà mua mảnh đất diện tích 269m2 của gia đình ông Vũ Văn T1 tại thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang có phía Bắc giáp với nhà anh Vũ Văn H3, phía Nam giáp nhà chị Dương Thị G (nay là chị Dương Thị H2 xây nhà), phía Tây giáp đường bê tông của thôn, phía Đông giáp với ruộng đất nông nghiệp. Khi mua đất bà trực tiếp đi đo đất, chiều rộng mảnh đất là 10m hết vành lao xây bằng đá giáp với đất chị G. Khi bà mua đất xong bà xây nhà tạm cấp 4 và quán bán hàng xây hết phần đất mua bao gồm cả vành lao. Năm 2009, gia đình bà được Nhà nước cấp GCNQSDĐ H01615 số 943/QĐ - UBND mảnh đất có chiều rộng là 10,31m. Từ khi nhận chuyển nhượng gia đình bà và các hộ không có tranh chấp gì. Năm 2018, UBND xã T có chính sách mở rộng đường bê tông và chỉ đạo về thôn tổ chức họp dân thống nhất để đường liên thôn đổ bê tông mặt đường rộng 6m, gia đình bà đã hiến khoảng 1,5m đến 2m đất chiều sâu để làm đường.
Gia đình chị Dương Thị G ra ở trước gia đình bà, có vành lao xây bằng đá là ranh giới đất. Năm 2018, bà phá nhà tạm và xây nhà kiên cố bà đã phá vành lao đi xây trồng lên móng của vành lao. Năm 2011, chị G đã chết, bà H2 là chị ruột chị G xây nhà kiên cố năm 2022. Năm 2019, anh Nguyễn Thanh T2 là con trai bà chết, bà và ông T được thừa kế mảnh đất. Đất mang tên bà và ông T là chồng bà không liên quan đến các con của ông bà. Bà đề nghị không đưa các con của bà vào tham gia tố tụng trong vụ án này. Bà xác định đất nhà bà đang thiếu so với GCNQSDĐ 0,41m chiều rộng, kéo dài hết đất. Bà đề nghị Tòa án buộc bà H2 trả lại diện tích đất đã lấn chiếm cho gia đình bà khoảng 9,3m2, trị giá 103.320.000 đồng.
Đồng nguyên đơn - Ông Nguyễn Thành T trình bày: Ông là chồng bà L lời khai của bà L cũng là lời khai của ông. Đất mang tên ông và bà L, không liên quan đến các con của ông bà. Ông đề nghị không đưa các con của ông bà vào tham gia tố tụng trong vụ án này. Ông ủy quyền cho bà L tham gia tố tụng tại Tòa án và quyết định mọi vấn đề của vụ án.
Bị đơn - bà Dương Thị H2 trình bày: Mảnh đất 128m2 tại thôn N, xã T, huyện L, trước kia mang tên Dương Thị G, chị G ở trên mảnh đất đó từ năm 1992 khi đó có một mình chị G sinh sống ở khu vực đó. Tứ cận đất: phía Nam giáp đất nhà ông Vũ Văn Đ2, phía Bắc giáp đất nhà ông Vũ Văn T1, phía Tây giáp đường thôn, phía Đông giáp ruộng của thôn. Ngày 08/12/2010, chị G được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số 00482/QSDĐ/QĐ số 647/QĐ/UB(H) mang tên Dương Thị G. Khi các hộ được cấp GCNQSDĐ thì các hộ liền kề có ký giáp danh và không có tranh chấp gì, các hộ sử dụng ổn định cho đến nay, mảnh đất có vành lao dài hết đất chia ranh giới giữa đất chị G và đất nhà ông T1.
Năm 2004, ông T, bà L mua mảnh đất của gia đình ông Vũ Văn T1. Năm 2011, chị G là em ruột của bà mất, sau đó mấy chị em thống nhất cho chị Dương Thị Đ đứng tên GCNQSDĐ. Chị Đ để lại mảnh đất để bà xây nhà ngày 10/3/2022. Trên mảnh đất từ khi chị G còn sống có nhà cấp 4 và bếp nhỏ cuối đất là chuồng lợn xây áp vào vành lao nhà bà L, ông T. Gia đình bà L, ông T xây nhà năm 2018 đã phá vành lao và xây hết lên phần vành lao chiều dọc của đất, bức tường ngang của gia đình bà vẫn giữ nguyên hiện trạng và bà khẳng định bức tường ngang là mốc giới giữa 2 mảnh đất của gia đình bà và gia đình bà L. GCNQSDĐ của gia đình bà thể hiện ranh giới đất nhà bà và nhà bà L là 1 đường thẳng. Gia đình bà L xây nhà từ năm 2018, còn nhà bà đến năm 2022 mới xây nhà. Bà xác định gia đình bà không hề lấn chiếm đất của bà L. Khi bà xây nhà bà đã chụp lại toàn bộ mốc giới của gia đình bà, các mốc giới xưa cũ vẫn còn nguyên, gia đình bà chỉ xây dựng trên phần đất đã được nhà nước cấp GCNQSDĐ mà không thể lấn chiếm đất của gia đình bà L.
Bà khẳng định nếu đất nhà bà có thừa diện tích so với GCNQSDĐ là do chị G khai phá phần mương giáp ruộng rau muống về phía Nam giáp đất gia đình ông Đ2, còn phía Bắc giáp đất gia đình bà L đã có ranh giới rõ ràng. Nay bà L khởi kiện đòi bà trả 9,3m2 đất bà không đồng ý vì gia đình bà không lấn chiếm.
Việc mua đất làm nhà trên đất của bà Dương Thị Đ là do mình thực hiện vì vậy bà đề nghị Tòa án không đưa chồng, con bà vào tham gia tố tụng trong vụ án này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị Đ trình bày: mảnh đất 128m2 mang tên Dương Thị G, chị G ở trên mảnh đất từ năm 1992 và xây nhà cấp 4, khi đó có một mình chị G sinh sống ở khu vực này, có ranh giới rồ ràng. Phía Nam của mảnh đất giáp với nhà ông Vũ Văn Đ2 có một mương nước chảy rộng khoảng 1,5m đến 2m, chị G đã tự khai phá và đổ đất lên để trồng rau. Năm 2004, ông T, bà L mua mảnh đất của gia đình ông T1, trước khi gia đình bà L mua, mảnh đất có vành lao dài hết đất chia ranh giới giữa đất chị G và đất nhà ông T1. Năm 2011, chị G chết, mấy chị em thống nhất để chị đứng tên trong GCNQSDĐ. Do chị đi làm ăn xa nên để lại mảnh đất để chị H2 xây nhà ngày 10/3/2022. Chị thừa nhận các nội dung về thời điểm gia đình bà L, chị H2 xây nhà, ranh giới đất như chị H2 trình bày là đùng.
Nay bà L khởi kiện đòi chị H2 trả 9,3m2 đất, chị không đồng ý vì chị đang đứng tên trong GCNQSDĐ, gia đình chị không hề lấn chiếm. Bà L đã tự ý chuyển cột điện sang phần đất nhà chị.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND xã T do ông Trần Duy Đ1 - Chức vụ Chủ tịch UBND xã đại diện trình bày: qua tra cứu hồ sơ lưu tại UBND xã thì thửa đất trên ông Nguyễn Thanh T2 (sau khi ông T2 chết, ông T, bà L được hưởng thừa kế) nhận chuyển nhượng lại từ ông Vũ Văn T1 và bà Hoàng Thị H4 tại hợp đồng ký ngày 17/3/2009. Hồ sơ đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục. Tại hồ sơ kỹ thuật thửa đất của ông T2 phía giáp danh với nhà chị H2 bây giờ (trước kia là của chị Dương Thị G) thể hiện chị G có ký giáp gianh với thửa đất của ông T2.
Tra cứu hồ sơ cấp GCNQSDĐ lần đầu tại xã T năm 2000 thì đơn cấp giấy lần đầu của nhà ông T1 và nhà bà G có ký giáp danh, ranh giới thửa đất rõ ràng, đã xây vành lao từ trước năm 2000, từ khi được cấp GCNQSDĐ gia đình ông T1, bà G không xảy ra tranh chấp. UBND xã T đề nghị TAND huyện Lục Nam giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - UBND huyện L do Ông Nguyễn Văn Q - Chuyên viên phòng Tài nguyên môi trường trình bày: sau khi xem xét hồ sơ cấp GCNQSDĐ của hộ ông T1, hộ bà G thì các hộ có đất liền kề đã ký giáp danh. Năm 2009, anh Nguyễn Thanh T2 được chuyển nhượng diện tích đất từ gia đình ông T1, hồ sơ đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục chuyển nhượng.
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản xác định:
1- Thửa đất gia đình bà Dương Thị Đ có diện tích 128m2, đo đạc tại thực địa diện tích 197,8m2, tăng 69,8m2 so với diện tích ghi trong GCNQSDĐ. Phía Đông giáp đất nông nghiệp của thôn, phía Tây giáp đường bê tông của thôn; phía Nam giáp đất của ông Đ2, phía Bắc giáp đất bà L - ông T.
2- Thửa đất gia đình ông Nguyễn Thành T, bà Nguyễn Thị L có diện tích 269m2, đo đạc tại thực địa diện tích 301,9m2, tăng 32,9m2 so với diện tích ghi trong GCNQSDĐ.
Kết quả xác minh, chính quyền thôn N và UBND xã T, huyện L xác định: diện tích 128m2 đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ năm 2000 cho hộ bà Dương Thị G. Ngày 17/12/2020, thừa kế cho bà Dương Thị Đ. Khi đo vẽ diện tích thực tế là 197,8m2 phần diện tích tăng lên do phía nam giáp nhà ông Đ2 trước đây là bãi muống có mương nước chảy qua đất. Quá trình sử dụng thì các hộ dân có thể vỡ vạc thêm các bờ mương, bờ ruộng. Khi các hộ được cấp GCNQSDĐ, các hộ liền kề có ký giáp danh xác định ranh giới rõ ràng. Diện tích đất nhà bà Đ và diện tích đất của gia đình ông T1 (đã chuyển nhượng cho anh Nguyễn Thanh T2 nay do ông T, bà L quản lý, sử dụng có ranh giới rõ ràng là vành lao xây kiên cố).
Tại biên bản xác minh ngày 01/8/2023 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện L cung cấp: năm 2009, việc đo đạc để cấp GCNQSDĐ và tách thửa đất đều đo bằng tay chưa có tọa độ như ngày nay nên việc sai số có thể xảy ra.
Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, đã quyết định: căn cứ Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013. Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với bà Dương Thị H2 về việc đòi diện tích 9,3m2 đất; địa chỉ đất tranh chấp tại Thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang (có sơ đồ kèm theo).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 20/9/2023, bà L, ông T kháng cáo bản án, với nội dung: đề nghị xem xét sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa Luật sư H1 bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: yêu cầu khởi kiện của ông T, bà L là có căn cứ do hiện trạng đất mặt tiền gia đình bà L đang bị thiếu 0,3m so với GCNQSDĐ trong khi đất gia đình bà H2 thừa 1,9m chiều rộng so với GCNQSDĐ. Cột điện mà bà L di chuyển khi xây dựng là ranh giới phân định hai thửa đất hai gia đình, sau khi nguyên đơn xê dịch cột điện đã đề lại khoảng 0,3m đất lưu không. Đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm để tiến hành thu thập thêm tài liệu chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án được đảm bảo khách quan.
Bà L nhất trí với ý kiến phát biểu của Luật sư H1 không bổ sung gì thêm.
Bà H2 trình bày khẳng định không lấn chiếm đất của gia đình bà L, thực tế bà L là người đã phá bỏ bức tường vành lao bằng đá cũ là ranh giới phân định giữa đất gia đình bà L và gia đình bà H2 và tiến hành xây dựng các công trình hết đất của gia đình bà L rồi nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của bà L, ông T.
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng, đủ quy định của BLTTDS, các đương sự đã thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của bà L, ông T, phân tích nội dung, các tình tiết của vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của bà L, ông T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bà L, ông T được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm việc vắng mặt lần thứ hai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo gồm: đại diện UBND huyện L, đại diện UBND xã T, bà Dương Thị Đ mặc dù đã dược triệu tập hợp lệ nhưng không có lý do. HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 296 BLTTDS tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Xét nội dung vụ án và yêu cầu khởi kiện của bà L, ông T HĐXX thấy: năm 2004 anh Nguyễn Thanh T2 con trai bà L, ông T mua mảnh đất diện tích 269m2 tại thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang của anh Vũ Văn T1. Năm 2019 anh T2 chết, bà L ông T được hưởng thừa kế. Khi gia đình bà L mua đất của gia đình anh T1 bà trực tiếp đi đo đất, chiều rộng của khuôn đất là 10m có vành lao xây bằng đá là ranh giới giữa 2 thửa đất của bà L và đất nhà chị Dương Thị G (nay chuyển cho chị H2). Bà L cho rằng khi gia đình bà xây nhà có đề lại phần móng 30cm, bà H2 đã lấn chiếm 9,3m2 đất của gia đình bà vì đất của bà H2 thừa so với GCNQSDĐ còn đất nhà bà thì thiếu so với GCNQSDĐ nên bà cho rằng bà H2 đã lấn chiếm đất của gia đình bà.
Năm 2004, sau khi nhận chuyển nhượng đất xong, gia đình bà L đã xây nhà tạm cấp 4 và quán bán hàng, xây hết phần đất mua bao gồm cả vành lao. Năm 2018, bà L phá nhà tạm và xây nhà kiên cố, bà đã phá vành lao và làm hết phần đất bà đã mua, phần tường giáp nhà bà H2 vướng phần nhà cấp 4 nên không trát vữa được (có ảnh chụp lại). Từ khi nhận chuyển nhượng gia đình bà L và hộ chị G (nay là bà H2) không có tranh chấp. Bà L đã tự ý phá bỏ bức tường vành lao là ranh giới giữa hai đất để xây nhà kiên cố trước nhà bà H2 4 năm vì vậy không có căn cứ để khẳng định gia đình bà H2 lấn chiếm đất của gia đình bà L.
Xác minh thực tế 02 mảnh đất vẫn còn bức tường ngang của gia đình bà H2 là mốc giới cố định không thể xê dịch được. Qua xác minh với UBND xã T, Văn phòng ĐKQSDĐ huyện L thì việc bà H2 Lấn chiếm đất nhà bà L không thể xảy ra. về diện tích đất của bà H2 tăng hơn so với GCNQSDĐ là do vỡ các bờ ruộng và do sai số đo đạc và việc vỡ các bờ ruộng là về phía nam của thửa đất giáp với nhà ông Vũ Văn Đ2. Đất nhà chị G và đất nhà bà L đà có vành lao kiên cố xây từ những năm 1992. Tòa sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Thành T là có căn cứ.
[3]. Xét kháng cáo của bà L, ông T, HĐXX thấy: tại cấp phúc thẩm bà L, ông T không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Vì vậy kháng cáo của bà L, ông T không có căn cứ chấp nhận.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: bà L, ông T là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Xử: không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Thành T; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 65/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
2. Về án phí: bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Thành T được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 41/2024/DS-PT
Số hiệu: | 41/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về