Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 411/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 411/2023/DS-PT NGÀY 15/11/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 15 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 318/2023/TLPT-DS ngày 06 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 349/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1962; bà Nguyễn Ngọc N1, sinh năm 1964; cư trú tại: Số H, tổ A, ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh T.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1985; địa chỉ: Ấp P, xã S, Huyện D, tỉnh T, có mặt 2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N2, sinh năm 1947; địa chỉ: Tổ B, ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh T, có mặt 3. Người kháng cáo: Bị đơn- Ông Nguyễn Văn N2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07 tháng 9 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ông N, bà N1 có nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn N2 01 phần đất diện tích 182 m2, thửa đất số 226, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh T từ năm 1997; vợ chồng ông N bà N1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H03083/TT do UBND thị xã T, tỉnh T (nay là thành phố T, tỉnh T) cấp ngày 21.5.2009. Khi chuyển nhượng QSDĐ có làm giấy tay chuyển nhượng, ông N bà N1 sử dụng và xây nhà ở từ khi mua đất cho đến năm 2022. Do nhà ở xuống cấp nên ông N, bà N1 sửa chữa lại thì ngày 05.8.2022 ông N2 đến đập phá không cho khởi công xây sửa lại nhà và dùng trụ sắt cắm lên đất của ông N, bà N1 lấn đất phía mặt hậu. Phần đất lấn chiếm qua đo đạc hiện trạng có diện tích 7,6 m2 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N, bà N1. Nay ông N, bà N1 yêu cầu ông N2 trả diện tích đất 7,6 m2 nêu trên.

Bị đơn ông Nguyễn Văn N2 trình bày:

Nguồn gốc đất ông N, bà N1 đang ở là đất của ông cho ông N, bà N1 ở nhờ từ rất lâu, ông không nhớ năm nào, ông N bà N1 tự đi đăng ký quyền sử dụng đất không hỏi ý kiến của ông về tứ cận và làm giấy lúc nào ông cũng không biết, ông N bà N1 cất nhà ở cho đến nay. Nay ông N bà N1 làm lại nhà mới nhưng không xây dựng trên diện tích nhà cũ mà lấy thêm đất của ông ở mặt hậu nên ông không đồng ý. Ông xác định phần đất ông N bà N1 tranh chấp nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ của ông nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông N, và N1. Giấy tay mua bán đất giữa vợ chồng ông N với vợ chồng ông là chữ ký của vợ chồng ông nhưng là chuyển nhượng phần đất khác.

* Tại bản án 77/2023/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn N và bà Nguyên Ngọc N1 đối với ông Nguyễn Văn N2.

Ông Nguyễn Văn N, bà Nguyễn Ngọc N1 được quyền sử dụng diện tích đất 7.6 m2, nằm trong thửa đất số 226, tờ bản đồ số 13, ông N bà N1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H03083/TT do UBND thị xã T, tỉnh T (nay là thành phố T, tỉnh T) cấp ngày 21.5.2009, tọa lạc tại ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh T, có tứ cận: Đông giáp thửa 310; Tây giáp thửa 226; Nam giáp đường đất; Bắc giáp thửa 133 (Có sơ đồ kèm theo).

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 14-8-2023, bị đơn- Ông Nguyễn Văn N2 có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T tại phiên toà:

Về thủ tục tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét kháng cáo của bị đơn thấy rằng: Phần đất tranh chấp có diện tích 7,6 m2 nằm trong diện tích đất 182 m2 thửa đất số 226, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh T.

Hai bên đương sự thừa nhận nguồn gốc đất ông N đang sử dụng trước đây là của ông Nguyễn Văn N2. Ông N cho rằng ông N2 chuyển nhượng cho ông từ năm 1997, còn ông N2 thì cho rằng chỉ cho ông N ở nhờ trên đất.

Xét thấy, ông N và ông N2 là anh em ruột, ông N2 khi thì cho rằng chỉ cho ông N ở nhờ trên đất, giấy tờ bán đất cho ông N ông có ký tên nhưng là bán phần đất khác; khi thì ông N2 thừa nhận có chuyển nhượng đất cho ông N từ sau giải phóng nhưng cho rằng ông N sử dụng đất không đúng với diện tích, ranh đất thoả thuận chuyển nhượng. Tuy nhiên, ông N không thừa nhận lời trình bày của ông N2, ông N2 không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình và từ khi đó đến nay cũng không tranh chấp gì về việc cho ông N ở nhờ, không tranh chấp về ranh đất. Do đó, có căn cứ xác định phần đất ông N đang quản lý, sử dụng và được cấp giấy chứng nhận QSSĐ có nguồn gốc chuyển nhượng của ông N2.

Qua thẩm định đo đạc, có cơ sở xác định thời điểm ông N2 chuyển nhượng QSDĐ cho ông N thì ông N2 chưa được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Sau khi chuyển nhượng đất, ông N kê khai trong sổ mục kê năm 2005 số thửa 226 và được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ năm 2009. Phân đất của ông N2 thuộc thửa 310 có hình thể và diện tích đúng như giấy chứng nhận QSDĐ được cấp tại vị trí ranh đất tranh chấp (Giấy chứng nhận QSDĐ của ông N2 được cấp năm 1997 và cấp lại năm 2018); phần tranh chấp thể hiện nằm trong thửa 226 thuộc Giấy chứng nhận QSDĐ H03083/TT do UBND thị xã T, tỉnh T (nay là thành phố T, tỉnh T) cấp ngày 21-5-2009 cho ông N.

[2] Tại phiên toà, ông N2 và người đại diện hợp pháp của ông N đều xác định từ trước đến nay vợ chồng ông N là người sử dụng diện tích đất tranh chấp. Nay ông N tháo dỡ nhà cũ, xây dựng nhà mới thì ông N2 tranh chấp và cho rằng ông N sử dụng diện tích 7,6 m2 thuộc quyền sử dụng của ông với lí do khi mua bán đất hai bên không đo đạc, chưa xác định diện tích cụ thể, ông N2 chỉ cho vợ chồng ông N sử dụng tạm phần đất tranh chấp là không có căn cứ chấp nhận. Do đó, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T tại phiên toà đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí phúc thẩm dân sự: Ông N2 thuộc trường hợp được miễn án phí phúc thẩm dân sự theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn - ông Nguyễn Văn N2.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T.

Căn cứ vào Điều 166 Bộ luật Dân sự; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Ngọc N1 đối với ông Nguyễn Văn N2.

Ông Nguyễn Văn N, bà Nguyễn Ngọc N1 được quyền sử dụng diện tích đất 7,6 m2, thuộc thửa đất số 226, tờ bản đồ số 13, ông N bà N1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H03083/TT do UBND thị xã T, tỉnh T (nay là thành phố T, tỉnh T) cấp ngày 21.5.2009, tọa lạc tại ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh T, có tứ cận: Hướng Đông giáp thửa 310; Hướng Tây giáp thửa 226; Nam giáp đường đất; Bắc giáp thửa 133. (Có sơ đồ kèm theo).

2. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn N, bà Nguyễn Ngọc N1 tự nguyện chịu 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm nghìn đồng) chi phí xem xét thẩm định, đo đạc đất. Ghi nhận ông N, bà N1 đã nộp xong.

3. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm, án phí phúc thẩm cho ông Nguyễn Văn N2.

Ông Nguyễn Văn N, bà Nguyễn Ngọc N1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho ông N, bà N1 số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu số 0001377 ngày 11.10.2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 411/2023/DS-PT

Số hiệu:411/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về