Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 361/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 361/2022/DS-PT NGÀY 05/09/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 05 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 129/2022/TLPT-DS ngày 15/4/2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2022/DS-ST ngày 11, 14/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 218/2022/QĐ-PT ngày 02/8/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 334/2022/QĐPT- HPT ngày 10/8/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 391/2022/QĐPT- HPT ngày 31/8/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

- Ông Trần Văn N, sinh năm 1949.

HKTT và trú tại: Số 15, liền kề 4 khu đô thị Văn Khê, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội.

- Bà Trần Thị Q, sinh năm 1955.

HKTT: Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định.

Trú tại: Số 15, liền kề 4 khu đô thị V, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông N, bà Q: Luật sư Nguyễn Thị T, Công ty Luật TNHH Khải Hưng, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1944.

HKTT: Số 5B xóm C, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Trú tại: Số 16, ngõ A ngách B phố L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội Đại diện theo ủy quyền của bà H: Chị Đinh Bích Tr, sinh năm 1976;

Trú tại: Số 5B xóm C, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội (Theo Giấy ủy quyền: 1030.21, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 5/3/2021 của Văn phòng công chứng số 1 Thành phố Hà Nội).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Dương Văn M, sinh năm 1974.

- Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1981.

Cùng HKTT: Số 1 C5 tổ 1A phường T, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

Cùng trú tại: Số 6 ngõ A phố T, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội - Chị Đinh Bích Tr, sinh năm 1976.

HKTT: Số B xóm C, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Trú tại: Số 16, ngõ A ngách B phố L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội - Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Sỹ T, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Mai Thị Thiên H, Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội, chi nhánh quận Hai Bà Trưng (Văn bản ủy quyền số 4024/UBND – ĐT ngày 15/11/2021 của Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội).

Do có kháng cáo của ông Trần Văn N là nguyên đơn, bà Nguyễn Thị H là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Nguyên đơn trình bày:

Năm 1996 gia đình ông bà mua của gia đình ông Đinh Văn Đ, bà Nguyễn Thị H diện tích đất 59m2 tại địa chỉ tổ 15 phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội (nay là số 8 ngõ 67 ngách 34 phố L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội). Năm 2001 ông bà được UBND Thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thửa đất số 205 tờ bản đồ số 6H-IV-37 với diện tích 64m2.

Ngày 14/7/2020 ông bà ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho vợ chồng anh Dương Văn M, chị Nguyễn Thị Đ đối với thửa đất trên. Tuy nhiên trong quá trình vợ chồng anh Minh, chị Đào nộp hồ sơ yêu cầu đăng ký biến động đất tại Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội chi nhánh quận Hai Bà Trưng thì được biết bà Nguyễn Thị H có đơn trình bày về thửa đất trên có tranh chấp do vậy Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội chi nhánh quận Hai Bà Trưng tạm dừng giao dịch đối với thửa đất này. Trong đơn bà H trình bày gia đình ông lấn sang đất của bà H 5m2 và xác định phần diện tích lấn chiếm là của gia đình bà H.

Trước khi cấp “Giấy chứng nhận” các cơ quan có thẩm quyền đã về thửa đất kiểm tra thực địa có sự chứng kiến của ông Đức (chồng bà H) đã chỉ ranh giới thửa đất của gia đình ông. Ngoài diện tích 59m2 đất gia đình ông thì còn 5m2 là phần rãnh không có ai sử dụng. Các cơ quan đã đo đạc gộp vào phần đất của gia đình ông thành 64m2 để gia đình ông nộp thuế và cấp “Giấy chứng nhận” cho gia đình ông. Lúc đó ông Đức cũng có ý kiến: Phần rãnh không ai sử dụng thì gộp vào và đề nghị cấp cho gia đình ông được sử dụng. Sau khi sử dụng gia đình ông N đã đăng ký chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nộp tiền sử dụng đất và nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước. Kể từ thời điểm các cơ quan Nhà nước về đo đạc cấp Giấy chứng nhận cho gia đình ông, gia đình bà H không có ý kiến gì phản đối. Mặt khác hiện tại gia đình ông và các hộ liền kề giáp phần diện tích 5m2 cũng không có tranh chấp.

Nay gia đình ông đề nghị Tòa án tuyên diện tích 5m2 đất nằm trong diện tích 64m2 tại thửa đất số 205 tờ bản đồ số 6H-IV-37 tại địa chỉ tổ 15 (số 8 ngõ, 67 ngách 34 phố L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội) được UBND Thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 24/7/2001 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn chị Đinh Bích Tr trình bày:

Bà H xác nhận phần diện tích 5m2 đất thuộc tổ 15 phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội đang tranh chấp giữa gia đình bà với gia đình ông N, bà Q có nguồn gốc là của ông Đinh Văn Đ, bà Nguyễn Thị H được sử dụng từ năm 1980 (trước đó là của ông bà nội chị mua được từ thời Pháp) nhưng hiện tại phần diện tích 5m2 này chưa có tài liệu chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của ông Đức và bà H.

Ngày 28/9/1996 ông Đức bà H đã bán cho vợ chồng ông N, bà Q mảnh đất có diện tích khoảng 58m2 (chưa xác định được diện tích bao nhiêu m2) do vậy hai bên có lập giấy viết tay thể hiện rõ nội dung: “Chuyển nhượng phần diện tích 58m2 có vị trí: Phía Đông giáp với nhà ông Thịnh, phía Tây giáp với nhà ông Thanh, phía Nam giáp với ngõ, phía Bắc giáp với nhà ông Đức. Sau khi xây móng và xây tường rào xong sẽ đo lại chính xác để làm số diện tích thanh toán chính thức, kích thước chiều ngang và chiều dài mảnh đất vuông vắn”.

Ngày 28/11/1996 ông Đức bà H có đơn xin mua bán nhà cấp bốn trên diện tích 36m2 có xác nhận của UBND phường Đồng Tâm về việc chuyển nhượng phần diện tích nhà trên 59m2. Sau đó ông Đức đóng lệ phí mua bán nhà, và ông N có tờ kê khai nộp thuế đất với diện tích 59m2. Gia đình ông Đức để lại một phần đất giữa nhà ông Thanh và nhà ông N để làm rãnh thoát nước cho gia đình ông Đức, bà H. Hiện tại rãnh thoát nước vẫn còn tồn tại xuyên suốt từ nhà ông Đức, bà H qua nhà ông N, ông Thanh.

Năm 1997 khi Nhà nước tiến hành làm thủ tục kê khai cấp GCN quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho các hộ xung quanh. Khi cán bộ đo thửa đất gia đình ông N và Quý, lập hồ sơ thửa đất và chữ ký xác nhận của các hộ liền kề đều xác nhận gia đình ông N được sử dụng 64m2. Tại thời điểm đó mục đích các hộ phải ký như vậy (trong đó có gia đình ông Đức, bà H) xác định các hộ không có tranh chấp gì để làm thủ tục cấp “sổ đỏ” nhưng các hộ không họp với nhau cũng như không có tài liệu nào chứng minh về các việc các hộ gia đình có văn bản thỏa thuận cho phép các hộ sử dụng (trong đó có hộ gia đình ông N) để mục đích cấp “sổ đỏ”. Gia đình ông Đức có chữ ký xác nhận với tư cách hộ giáp ranh ký xác nhận ông N được sử dụng 64m2 không có tranh chấp gì. Tuy nhiên hai bên gia đình không lập văn bản thỏa thuận thống nhất với nhau về việc gia đình ông Đức chỉ ký xác nhận để cho gia đình Nhuệ sử dụng 64m2 để làm thủ tục cấp “sổ đỏ” thôi chứ không khẳng định gia đình ông N được sử dụng cả 64m2. Phần diện tích 64m2 nhà ông N được cán bộ địa chính phường đo và lập hồ sơ là sai diện tích nhưng tại thời điểm đó các gia đình đều không có ý kiến gì vì mục đích để được cấp “sổ đỏ” cho các hộ trên khu vực nhà ông N, nhà ông Đức và các hộ khác nữa.

Khi Nhà nước tiến hành cấp GCN quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà trên đất, gia đình ông Đức bà H có nói với ông N số chênh lệch 5m2 là của gia đình ông Đức, sau này ông N có nhu cầu sử dụng thì phải thanh toán cho gia đình ông Đức bà H.

Quá trình làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trên đất, các hộ đều nhất trí và không có ý kiến gì, trình tự cấp giấy chứng nhận trên đều đúng quy định pháp luật, gia đình bà H không có ý kiến gì về quy trình cấp giấy chứng nhận cho gia đình ông N, bà Q.

Năm 2015 ông Đức chết, hiện bà H và chị đang sinh sống tại địa chỉ số 16 ngách 34 Ngõ 67 phố L, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội sát phía sau nhà ông N.

Nay bà H xác nhận phần rãnh giữa nhà ông N và nhà ông Thanh có diện tích 5m2 là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Đức, bà H (chưa bán cho gia đình ông N). Gia đình ông Đức và bà H không có tài liệu nào chứng minh về quyền sử dụng hợp pháp đối với phần diện tích 5m2 trên vì giấy tờ mất do chiến tranh nhưng bản thân ông N, bà Q đều biết phần diện tích 5m2 là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Đức, bà H, có xác nhận của anh em và mẹ của ông Đức đối với phần diện tích đã bán cho gia đình ông Đức trong đó có một phần ông N đang sử dụng.

Khi Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản thì ông N đã tự xác định ranh giới nhà đất của ông N không bao gồm rãnh nước mà chỉ từ tường nhà ông N đã xây dựng kiên cố. Bản thân ông N khẳng định 5m2 đất không thuộc quyền sử dụng của ông N mà cho rằng địa chính phường đo sai.

Tại biên bản định giá của Tòa án, gia đình ông N xác nhận nhà xây dựng trên diện tích đất 60,2m2 và xác nhận phần rãnh nước vẫn còn tồn tại không thuộc nhà ông N như vậy phần diện tích chênh lệch là 1,2m là thuộc quyền sử dụng của gia đình bà H.

Nay vợ chồng ông N và bà Q đã bán cho vợ chồng anh Minh, chị Đào toàn bộ thửa đất 64m2 với giá sấp xỉ 70 triệu /m2 (hiện tại giá mua nhà đất trên thị trường của khu vực đất này là 100 triệu/m2) nên gia đình bà H yêu cầu trả số tiền 300.000.000 đồng cho gia đình chị thay vì trả lại phần diện tích 5m2 do ông N đã lấn chiếm của gia đình bà H.

Bà H không yêu cầu phản tố. Bà H không có tài liệu nào chứng minh về toàn bộ nguồn gốc đất trước kia đã bán cho hộ gia đình ông N hay các hộ gia đình khác liền kề với gia đình ông N để nộp cho Tòa án. Bà H không còn vấn đề nào vướng mắc ngoài yêu cầu khởi kiện đã ghi trong đơn khởi kiện và đề nghị giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Dương Văn M, chị Nguyễn Thị Đ trình bày:

Ngày 14/7/2020 anh Minh, chị Đào nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền đất từ vợ chồng ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q đối với diện tích đất 64m2 tại thửa đất số 205 tờ bản đồ số 6H-IV-37 do UBND thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 24/7/2001 theo Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số: 3277.2020/MBN&CNQSDĐ. Sau khi ký Hợp đồng anh Minh, chị Đào đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính với ông N và bà Q.

Sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền đất từ vợ chồng ông N ngày 27/7/2020 anh Minh, chị Đào đã nộp hồ sơ yêu cầu đăng ký biến động đất đai đến Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội chi nhánh quận Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, ngày 23/10/2020 Anh Minh, chị Đào nhận được văn bản trả lời của Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội chi nhánh quận Hai Bà Trưng. Theo đó Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội chi nhánh quận Hai Bà Trưng kết luận hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Anh Minh, chị Đào chưa đủ điều kiện giải quyết do đang có đơn của bà H trình bày diện tích đất trên đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất. Do vậy Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội chi nhánh quận Hai Bà Trưng tạm dừng giao dịch đối với thửa đất trên. Trong đơn bà H trình bày gia đình ông N, bà Q đã lấn sang đất của nhà bà H 5m2, diện tích 5m2 nêu trên là của gia đình bà H. Việc bà H trình bày như vậy ảnh hưởng rất lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của anh Minh, chị Đào. Anh Minh, chị Đào phải đi vay ngân hàng để hoàn thành hết các nghĩa vụ tài chính đối với bên bán là vợ chồng ông N bà Q. Kể từ thời điểm mua đất đến nay là gần hơn một năm nhưng Anh Minh, chị Đào vẫn chưa hoàn tất được thủ tục đăng ký biến động đất đai để sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền đất từ vợ chồng ông N sang cho vợ chồng anh Minh, chị Đào. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống. Do đó anh Minh, chị Đào đề nghị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng nhanh chóng giải quyết vụ án, xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, tuyên: Diện tích 5m2 đất nằm trong diện tích 64m2 tại thửa đất số 205 tờ bản đồ số 6H-IV-37 tại địa chỉ tổ 15 (số 8 hẻm, 67/34/10 L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội) được UBND Thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 24/7/2001 thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của ông Trần Văn N và bà Trần Thị Quý để anh Minh chị Đào có thể thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai.

Anh Minh, chị Đào không có yêu cầu độc lập, không có tài liệu nào để nộp cho Tòa án và không còn vấn đề nào vướng mắc ngoài yêu cầu khởi kiện đã ghi trong đơn khởi kiện và đề nghị giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

bày:

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đinh Bích Tr trình Chị là con đẻ ông Đinh Văn Đ và bà Nguyễn Thị H. Chị sinh ra và lớn lên tại trên thửa đất giáp ranh với nhà ông N. Thửa đất nhà ông N đang sinh sống có nguồn gốc của bố mẹ chị được ông bà để lại từ năm 1983, 1984 (thời điểm đó không có giấy tờ). Từ năm 1993 đến năm 1996 gia đình chị cũng không kê khai với Cơ quan quản lý nhà đất. Năm 1996 bố mẹ chị đã bán cho ông N 59m2 có nhà cấp 4 diện tích 13,2m2 trên điện tích 35,9m2, bán cho ông N 23m2 cho nợ tiền không trả lãi trong một năm có xác nhận của UBND phường Đồng Tâm. Sau khi mua bán nhà xong, ông N và bà Q đã đập toàn bộ nhà cũ đi và xây lại nhà mới như hiện nay.

Thời điểm năm 2001 ông N, bà Q đã làm thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận nhà đất và cán bộ địa chính đo đạc, xác định các mốc giới và lập hồ sơ thửa đất có xác nhận của các hộ liền kề trong đó có xác nhận của bố mẹ tôi.

Ông N có xác nhận trực tiếp với chị phần diện tích 5m2 rãnh này là của gia đình ông Đức, bà H. Anh Minh cũng nghe điện thoại này và ông N cũng phàn nàn về phần diện tích này.

Chị không bổ sung gì thêm, chị cũng nhất trí với lời trình bày của bà Nguyễn Thị H. Chị không có yêu cầu độc lập.

Khi Nhà nước tiến hành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trên đất gia đình ông Đức bà H có nói với ông N số chênh lệch 5m2 là của gia đình ông Đức, sau nay ông N có nhu cầu sử dụng thì phải thanh toán cho gia đình ông Đức, bà H.

Quá trình làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trên đất, các hộ đều nhất trí và không có ý kiến gì, trình tự cấp giấy chứng nhận trên đều đúng quy định pháp luật, gia đình bà H không có ý kiến gì về quy trình cấp Giấy chứng nhận cho gia đình ông N, bà Q. Phần diện tích 64m2 nhà ông N được cán bộ địa chính phương đo và lập hồ sơ là sai diện tích nhưng tại thời điểm đo các gia đình đều không có ý kiến gì vì mục đích để được cấp “sổ đỏ” cho các hộ trên khu vực nhà ông N, nhà ông Đức và các hộ khác nữa.

Tại biên bản định giá của Tòa án, gia đình ông N xác nhận nhà xây dựng trên diện tích đất 60,2m2 và xác nhận phần rãnh nước vẫn còn tồn tại. Bản thân ông N khẳng định 5m2 đất không thuộc quyền sử dụng của ông N mà cho rằng địa chính phường đo sai.

Nay vợ chồng ông N và bà Q đã bán cho vợ chồng anh Minh, chị Đào toàn bộ thửa đất 64m2 với giá sấp xỉ 70 triệu /m2 (hiện tại giá mua nhà đất trên thị trường của khu vực đất này là 100 triệu/m2) nên gia đình chị yêu cầu trả số tiền 300.000.000 đồng cho gia đình chị thay vì trả lại phần diện tích 5m2 do ông N đã lấn chiếm của gia đình bà H.

Chị không có yêu cầu độc lập, vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình bày, không có sửa đổi, bổ sung, thay đổi gì. Không có tài liệu nào để nộp cho Tòa án và không còn vấn đề nào vướng mắc ngoài yêu cầu khởi kiện đã ghi trong đơn khởi kiện và đề nghị giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND Thành phố Hà Nội do bà Mai Thị Thiên H đại diện theo ủy quyền trình bày:

Tại bản kê khai đăng ký nhà ở và đất ở, đơn đăng ký nhà ở và đất ở ngày 10.12.1998 ông Trần Văn N kê khai diện tích đất đề nghị cấp giấy chứng nhận là 64m2 thuộc thửa đất số 205 tờ bản đồ 6H-IV-37. Theo biên bản xác nhận ngày 31/3/2001 nhà đất trên có nguồn gốc 64m2 sử dụng làm đất ở ổn định từ ngày 29/11/1996 đến nay. Toàn bộ diện tích đất 64m2 thuộc thửa đất số 205 tờ bản đồ 6H-IV-37. Theo biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 08/31997 đứng tên ông Trần Văn N có diện tích 64m2 không thể hiện mương, rãnh nước công cộng. UBND Thành phố Hà nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông Trần Văn N và bà Trần Thị Quý theo quy định tại Quyết định số 69/1999/QĐ –UB ngày 18/8/1999 của UBND Thành phố Hà Nội về việc ban hành sửa đổi “Quy định về kê khai đăng ký nhà ở, đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị Hà Nội”. UBND Thành phố Hà nội đề nghị vắng mặt trong quá các trình tự tố tụng tại Tòa án.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2022/DS-ST ngày 11, 14/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

1- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N đối với bà Nguyễn Thị H.

2- Xác nhận ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q được quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp đối với nhà đất thuộc thửa đất số 250 tờ bản đồ 6H-IV- 37 có diện tích 64m2 tại địa chỉ tổ 15(số 8 hẻm, 67/34/10 L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội )đã được UBND Thành phố Hà nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1010739-287 hồ sơ số: 4195.2001.QĐUB/23084.2001 cho ông Trần Văn Nhuệ và bà Trần Thị Quý theo Quyết định số 69/1999/QĐ –UB ngày 18/8/1999 của UBND Thành phố Hà Nội về việc ban hành sửa đổi “ Quy định về kê khai đăng ký nhà ở, đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị Hà Nội”.

3- Buộc ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q phải thanh toán cho bà Huệ và các đồng thừa kế của ông Đức giá trị của 1,2m2 với số tiền 48.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, nguyên đơn ông Trần Văn Nhuệ và bị đơn bà Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn ông N, bị đơn bà H do chị Đinh Bích Tr đại diện và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Minh tự nguyện thỏa thuận và đề nghị HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

- Ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q được quyền sở hữu, sử dụng 64m2 đất tại thửa đất số 205 tờ bản đồ 6I-IV-37, địa chỉ: Tổ 15 phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội đã được UBND Thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1010739-287 hồ sơ số: 4195.2001.QĐUB/23084.2001cho ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q theo Quyết định số 69/1999/QĐ –UB ngày 18/8/1999 của UBND Thành phố Hà Nội về việc ban hành sửa đổi “ Quy định về kê khai đăng ký nhà ở, đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị Hà Nội”.

- Ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M tự nguyện thanh toán cho bà H và các thừa kế của ông Đức số tiền là 200.000.000đ, đối với 5m2 đất thuộc thửa đất số 205 tờ bản đồ 6I-IV-37 (theo Giấy nhượng sử dụng đất ngày 28/9/1996 giữa bên mua là ông N, bên bán là ông Đức).

- Ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M đã thanh toán số tiền 200.000.000đ cho chị Đinh Bích Tr là đại diện theo ủy quyền của bà H; chị Trâm xác nhận đã nhận đủ 200.000.000đ do ông N, bà Q, anh Minh thanh toán.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của BLTTDS.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2022/DS-ST ngày 11, 14/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội theo hướng ghi nhận thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn N, bị đơn bà Nguyễn Thị H nộp trong hạn luật định, về hình thức là hợp lệ.

Về nội dung:

Theo Giấy nhượng sử dụng đất viết tay lập ngày 28/9/1996 với nội dung: “Ông Đinh Văn Đ, bà Nguyễn Thị H bán đất cho ông N tại vị trí mảnh đất rộng xấp xỉ 58m2 pa Đông giáp nhà anh Thịnh, phía Tây giáp nhà ông Thanh, phía Nam giáp ngõ, phía Bắc giáp nhà ông Đức. Diện tích mảnh đất hiện nay đo tạm tính là 58m2 khi xây móng xong và xây tường rào xong sẽ đo lại chính xác để làm số diện tích thanh toán chính thức, kích thước chiều ngang và chiều dài mảnh đất vuông vắn”, giấy nhượng sử dụng đất có chữ ký đầy đủ của ông Đức, bà H ông N và người làm chứng. Trước đó ngày 20/11/1996 các anh em nhà ông Đức có giấy xác nhận ông Đức, bà H sử dụng mảnh đất tại tổ 14E (số 8 hẻm, 67/34/10 L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội), phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội có mảnh đất vị trí phía Tây giáp bà Tiến, phía Đông giáp anh Lâm, phía Nam và Bắc giáp đường đi công cộng, mảnh đất này ông Đức, bà H sử dụng ổn định 20 năm nay không có tranh chấp gì đất đai. Ông Đức, bà H dùng hay bán không liên quan đến anh em trong nhà.

Ngày 28/11/1996 ông Đức, bà H và ông N cùng kê khai tại đơn xin mua bán nhà với nội dung: Bán căn nhà cấp 4 diện tích 13,2m2 trên diện tích đất 35,9m2, diện tích làm tròn 36m2. Chủ bán cam kết từ nay đến tháng 11/1997 ông N có tiền thì chủ bán sẽ bán nốt nhà đất bếp rộng 23m2.” Ngày 05/12/1996 cơ quan Thuế đã thu thuế đất đối với hộ gia đình ông Trần Văn N với diện tích 59m2.

Ngày 08/7/1997 cán bộ đo đạc và chính quyền sở tại đã lập biên bản xác định ranh giới mốc giới thửa đất tại địa chỉ tổ 14E (số 8 hẻm, 67/34/10 Lê Thanh Nghị, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội) nhà ông N sử dụng nằm trên thửa đất số 205 tờ bản đồ 6H-IV-37 với diện tích đất sử dụng là 64m2 và các chủ hộ sử dụng đất tiếp giáp trong đó có nhà ông Đinh Văn Đ ký xác nhận cho ông N sử dụng đất không có tranh chấp với các hộ liền kề. Ngày 10/12/1998 ông N, bà Q làm đơn kê khai đăng ký nhà ở và đất ở và đơn xin cấp GCN quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở với diện tích sử dụng đất là 64m2. Ngày 24/7/2001 UBND Thành phố Hà Nội cấp GCN quyền sở hữu nhà ở và quyền sự dụng đất ở số 1010739-287 hồ sơ số:

4195.2001.QĐUB/23084.2001 cho gia đình ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q tại địa chỉ tổ 15 phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội( địa chỉ mới số 8 hẻm, 67/34/10 L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội) và gia đình ông N sử dụng ổn định cho đến nay không có bất cứ tranh chấp nào.

UBND Thành phố Hà Nội cung cấp: Biên bản xác nhận phân loại hồ sơ đăng ký nhà ở, đất ở đã được UBND phường Đồng Tâm xác nhận ngày 31/3/2001 có nguồn gốc 64m2 nằm trên thửa đất số 205 tờ bản đồ 6I-IV-37 sử dụng làm đất ở ổn định từ ngày 28/11/1996 và có biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 08/3/1997 đứng tên ông Trần Văn N có diện tích 64m2 không thể hiện mương, rãnh nước công cộng.

Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 17/3/2021 của Tòa án và hồ sơ kỹ thuật thửa đất do Công ty cổ phần đo đạc bản đồ và khảo sát địa chất đối với nhà đất tại số 8 hẻm, 67/34/10 L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội do ông Trần Văn N quản lý sử dụng thể hiện như sau:

- 60,2m2 thuộc diện tích sử dụng riêng trong GCN quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10107390287 đã cấp cho ông Trần Văn N và bà Nguyễn Thị Quý hiện trạng được xây nhà 02 tầng và sân lợp mái tôn - 2,6m2 thuộc diện tích sử dụng riêng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10107390287 đã cấp cho ông Trần Văn N và bà Nguyễn Thị Quý hiện trạng là khe trống.

- 1,2m2 thuộc diện tích sử dụng riêng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10107390287 đã cấp cho ông Trần Văn Nhuệ và bà Nguyễn Thị Quý hiện trạng là lối đi chung.

Nhận thấy gia đình ông Đức, bà H bán mảnh đất tại tổ 15 nay là số 8 hẻm 67/34/10 L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội cho ông N đã được anh em nhà ông Đức xác nhận không có tranh chấp gì nhưng diện tích mảnh đất không được xác định cụ thể về chiều dài, chiều rộng mà chỉ xác định được vị trí tiếp giáp với các hộ xung quanh, khi mảnh đất trên được bán lại cho ông Trần Văn N cũng được hai bên xác nhận “Diện tích mảnh đất hiện nay đo tạm tính là 58m2 khi xây móng xong và xây tường rào xong sẽ đo lại chính xác để làm số diện tích thanh toán chính thức, kích thước chiều ngang và chiều dài mảnh đất vuông vắn”. Việc chuyển quyền sử dụng đất tuy có xác nhận của chính quyền địa phương nhưng cũng chỉ xác nhận quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông Đức chứ không xác nhận phần diện tích gia đình ông Đức được quyền sử dụng bao nhiêu m2.

Tại hợp đồng chuyển nhượng có thỏa thuận khi xây móng xong và xây tường rào xong sẽ đo lại chính xác để làm số diện tích thanh toán chính thức, kích thước chiều ngang và chiều dài mảnh đất vuông vắn, thỏa thuận này được hiểu, diện tích đất để thanh toán chính thức sẽ là diện tích được đo lại sau khi ông N xây xong móng và tường rào. Nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận năm 2017 gia đình ông N xây dựng tường bao thành nhà ở nhưng hai bên lại không cùng nhau đo đạc lại để thanh toán chính thức như hai bên đã thỏa thuận. Trên thực tế gia đình ông N đang sử dụng diện tích 60,2m2 hiện trạng được xây nhà 02 tầng và sân lợp mái tôn, còn phần diện tích 3,8m2 hiện đang là khe trống và ngõ đi chung. Khi tiến hành đo đạc và cấp GCN hộ liền kề cũng không có tranh chấp về mốc giới với ông N nên xác định diện tích ông N sử dụng trên thực tế là 64m2.

Bản án sơ thẩm buộc ông N thanh toán cho bà H giá trị của 1,2m2 đất là 48.000.000đ. Không nhất trí với quyết định này, bà H có đơn kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, hai bên thống nhất thỏa thuận như sau:

- Ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q được quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp đối với nhà đất thửa đất số 205 tờ bản đồ 6I-IV-37 có diện tích 64m2 tại địa chỉ: Tổ 15 (số 8 ngõ 67 ngách 34 phố L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội) đã được UBND Thành phố Hà Nội cấp GCN quyền sử hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1010739-287 hồ sơ số: 4195.2001.QĐUB/23084.2001cho ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q theo Quyết định số 69/1999/QĐ –UB ngày 18/8/1999 của UBND Thành phố Hà Nội về việc ban hành sửa đổi “ Quy định về kê khai đăng ký nhà ở, đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị Hà Nội”.

- Ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M tự nguyện thanh toán cho bà Nguyễn Thị H và các thừa kế của ông Đinh Văn Đ giá trị của 5m2 đất thuộc thửa đất số 205 tờ bản đồ 6I-IV-37 với số tiền là 200.000.000đ (theo Giấy nhượng sử dụng đất ngày 28/9/1996 giữa bên mua là ông N, bên bán là ông Đức bà H).

- Ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M đã thanh toán số tiền 200.000.000đ cho chị Đinh Bích Tr là đại diện theo ủy quyền của bà H; chị Trâm xác nhận đã nhận đủ 200.000.000đ do ông N, bà Q, anh Minh thanh toán.

Xét thấy, việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật nên sửa án sơ thẩm, ghi nhận thỏa thuận của các đương sự cụ thể như sau:

- Xác nhận ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q được quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp đối với nhà đất thuộc thửa đất số 250 tờ bản đồ 6H-IV-37 có diện tích 64m2 tại địa chỉ tổ 15(số 8 ngõ 67 ngách 34 phố L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội) đã được UBND thành phố Hà nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1010739-287 hồ sơ số: 4195.2001.QĐUB/23084.2001 cho ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q theo Quyết định số 69/1999/QĐ –UB ngày 18.8.1999 của UBND thành phố Hà Nội về việc ban hành sửa đổi “ Quy định về kê khai đăng ký nhà ở, đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị Hà Nội”.

- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M tự nguyện thanh toán cho bà Nguyễn Thị H và các đồng thừa kế của ông Đinh Văn Đ giá trị của 5m2 đất thuộc thửa đất số 205 tờ bản đồ 6I-IV-37 với số tiền là 200.000.000đ (theo Giấy nhượng sử dụng đất ngày 28/9/1996 giữa bên mua là ông N, bên bán là ông Đức bà H).

- Xác nhận ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M đã thanh toán số tiền 200.000.000đ cho chị Đinh Bích Tr là đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị H; chị Trâm xác nhận đã nhận đủ 200.000.000đ do ông N, bà Q, anh Minh thanh toán.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của HĐXX.

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm:

Do sửa án sơ thẩm nên ông N bà H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Do ông N là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông N.

Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 2 Điều 308 BLTTDS sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2022/DS-ST ngày 11, 14/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 3, Điều 99, Khoản 3 Điều 167 Luật đất đai.

- Điều 220, 242, 256, 705, 706, 707, 708, 709, 711, 712, 713 Bộ luật dân sự 1995.

- Điều 440 Bộ luật dân sự 2015.

- Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N đối với bà Nguyễn Thị H.

2- Xác nhận ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q được quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp đối với nhà đất thuộc thửa đất số 250 tờ bản đồ 6H-IV- 37 có diện tích 64m2 tại địa chỉ tổ 15(số 8 ngõ 67 ngách 34 phố L, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội) đã được UBND thành phố Hà nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1010739-287 hồ sơ số: 4195.2001.QĐUB/23084.2001 cho ông Trần Văn N và bà Trần Thị Q theo Quyết định số 69/1999/QĐ –UB ngày 18/8/1999 của UBND Thành phố Hà Nội về việc ban hành sửa đổi “ Quy định về kê khai đăng ký nhà ở, đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị Hà Nội”.

3- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M tự nguyện thanh toán cho bà Nguyễn Thị H và các đồng thừa kế của ông Đinh Văn Đ giá trị của 5m2 đất thuộc thửa đất số 205 tờ bản đồ 6I-IV-37 với số tiền là 200.000.000đ (theo Giấy nhượng sử dụng đất ngày 28/9/1996 giữa bên mua là ông N, bên bán là ông Đức bà H).

- Xác nhận ông Trần Văn N, bà Trần Thị Q, anh Dương Văn M đã thanh toán số tiền 200.000.000đ cho chị Đinh Bích Tr là đại diện theo ủy quyền của bà H; chị Đinh Bích Tr xác nhận đã nhận đủ 200.000.000đ do ông N, bà Q, anh Minh thanh toán.

4- Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm:

Ông N, bà H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Án phí dân sự sơ thẩm:

Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông N, bà Q.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 361/2022/DS-PT

Số hiệu:361/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về