Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 308/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 308/2023/DS-PT NGÀY 22/11/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 173/2023/TLPT-DS ngày 04 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2023/DS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Khắc H (Nguyễn Hữu X), bà Hoàng Thị H1; địa chỉ: Khu phố A, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Trần Thị Hoàng M và bà Tạ Thị Phương T; địa chỉ: Khu phố A, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị là người đại diện theo ủy quyền. Bà M có mặt, bà T vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Anh T1; địa chỉ: Khu phố A, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Phương L, địa chỉ: Số A N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị là người đại diện theo ủy quyền. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lê Tấn P - Văn phòng L2; địa chỉ: Số A N, thành phố Đ, Quảng Trị. Có mặt.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ủy ban nhân dân Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; địa chỉ: Số A đường N, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Quang Việt S - chức vụ Chủ tịch.

- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q, địa chỉ: B H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/4/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Khắc H, bà Hoàng Thị H1 trình bày:

Ông Nguyễn Khắc H (ông Nguyễn Hữu X) và bà Hoàng Thị H1 nhận chuyển nhượng ngôi nhà và quyền sử dụng đất của ông Võ Văn N và bà Lê Thị L1 tại khóm D, Phường E, thị xã Đ, tỉnh Quảng Trị (nay là khu phố A, Phường E, thành phố Đ), ngày 21/4/1980, hai bên có lập Giấy bán nhà và hoa màu, sau khi nhận chuyển nhượng thì ông H và bà H1 chuyển đến sinh sống trên thửa đất từ đó cho đến nay.

Trên thửa đất ông H, bà H1 nhận chuyển nhượng, có nền bê tông của Mỹ (xây dựng trong chiến tranh) xây dựng kéo dài từ một phần ngôi nhà sang phần đất phía sau.

Năm 1985-1986, Ủy ban nhân dâE (UBND) Phường 5 có chủ trương khai thác nền bê tông của Mỹ để lấy sắt, thép, đá xây dựng trường học trên địa bàn. Tại thời điểm khai thác, phía trước ông H, bà H1 đã xây dựng nhà ở trên nền bê tông, một đầu còn lại của nền bê tông (phía sau nhà ông H, bà H1) E cho khai thác. Sau khi khai thác, E cho ông H bà H1 thu dọn đá dăm, lấy đất trồng cây (có Giấy xác nhận vào ngày 20/6/1986 của ông Phan Văn T2 - Nguyên là Ủy viên quân sự Tài chính của E, người phụ trách khai thác). Từ đó đến nay thửa đất được gia đình ông H sử dụng, hiện phần đất này có diện tích 382m2 tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24 đều nằm trong khuôn viên vườn cây của nhà ông H trồng gồm cây cọ dầu, cây khế, cây thầu đâu và một số cây tràm, cây ngắn ngày khác.

Năm 2000, khi cơ quan chức năng đo đạc đất của các hộ gia đình sử dụng trên địa bàn, ông H đã đề nghị đo luôn thửa đất để gia đình đăng ký sử dụng nhưng được trả lời đất chưa có giấy tờ để đo sau, lợi dụng vợ chồng ông đi chữa bệnh, ông T1 đã đưa cán bộ về đo đạc và đăng ký phần đất nêu trên. Từ đó đến nay ông H làm đơn gửi đến khu phố, Chi bộ và khiếu nại đến E nhưng chưa được giải quyết thỏa đáng.

Ông H, bà H1 yêu cầu:

- Công nhận quyền sử dụng diện tích đất 382m2 tại thửa số 109, tờ bản đồ 24 tại khu phố A, Phường E, thành phố Đ thuộc quyền sử dụng của ông H, bà H1 mà ông Nguyễn Anh T1 đã kê khai, lấn chiếm và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà H1;

- Hủy đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất trong Sổ mục kê đất của ông Nguyễn Anh T1 đối với diện tích 382m2 trong diện tích 1.459m2 tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24 do Ủy ban nhân dân Phường E lập ngày 31/12/2000 và Sở Địa chính (nay là Sở T) tỉnh Quảng Trị xét duyệt ngày 31/12/2000.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho bị đơn ông Nguyễn Anh T1 trình bày:

Phần diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc do bà Trần Thị T3 mẹ ông T1 khai hoang từ năm 1976, bà T3 đăng ký kê khai lần đầu trong Sổ mục kê năm 1987 tại thửa số 17, tờ bản đồ số 3 diện tích 225m2, cộng với phần diện tích đất của ông ngoại cho nên năm 2000 ông T1 đã kê khai và được E quy chủ cho ông có quyền sử dụng đất với diện tích 1.459m2 tại thửa số 109, tờ bản đồ số 24, nên phần diện tích đang tranh chấp đó thuộc quyền sử dụng của ông T1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân Phường E, thành phố Đ trình bày:

Ủy ban nhân dân Phường xác nhận phần diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc của bà Trần Thị T3 (mẹ ông T1). Việc ông H cho rằng quy trình đo đạc, lập bản đồ địa chính năm 2001 có khuất tất là không đủ cơ sở, chứng cứ và vượt thẩm quyền của UBND Phường (bản đồ địa chính năm 2001 do tỉnh thực hiện). Ông H đề nghị UBND phường xác nhận nguồn gốc nhưng không có hồ sơ giấy tờ chứng minh.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q: Không có ý kiến bằng văn bản và không tham gia tố tụng tại Tòa án.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2023/DS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị quyết định:

Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 33, Điều 34 của Luật đất đai năm 1993; Điều 101 của Luật đất đai năm 2013; Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn về căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Khắc H (Nguyễn Hữu X), bà Hoàng Thị H1. 1.1. Công nhận diện tích đất 382m2 cho ông Nguyễn Khắc H (Nguyễn Hữu X), bà Hoàng Thị H1 mà ông Nguyễn Anh T1 đã kê khai, đăng ký tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24, địa chỉ: Khu phố A, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Khắc H (Nguyễn Hữu X), bà Hoàng Thị H1. Thửa đất có vị trí:

- Cạnh phía Đông giáp đất ông Nguyễn Khắc H có chiều dài 18,94m;

- Cạnh phía Tây giáp đường giao thông có chiều dài 18,22m;

- Cạnh phía Nam giáp đường giao thông có chiều dài 18,91m;

- Cạnh phía Bắc giáp đất bà Trần Thị T4 có chiều dài 0,50m + 12,16m + 9,49m;

(Kèm theo sơ đồ hiện trạng ranh giới thửa đất ngày 20/8/2021 của Văn phòng Đ1 chi nhánh thành phố Đ thực hiện).

1.2. Hủy đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất trong Sổ mục kê đất của ông Nguyễn Anh T1 đối với diện tích 382m2 trong tổng diện tích 1.459m2 tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24 do Ủy ban nhân dân Phường E lập ngày 31/12/2000 và Sở Địa chính (nay là Sở T) tỉnh Quảng Trị xét duyệt ngày 31/12/2000.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 08 tháng 06 năm 2023, bị đơn - ông Nguyễn Anh T1 kháng cáo yêu cầu sửa toàn bộ án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1 giữ nguyên nội dụng kháng cáo.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm, đã chấp hành đúng trình tự thủ tục phiên toà đúng quy định.

Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã đánh giá khách quan, áp dụng đúng pháp luật. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Anh T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Sự vắng mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về nguồn gốc và quá trình đăng ký kê khai, quản lý, sử dụng thửa đất tranh chấp:

- Thửa đất có diện tích 382m2 đang tranh chấp là phần còn lại sau khi nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 822m2 (sau khi trừ diện tích mở lối đi) cho ông Nguyễn Anh T1 mà ông T1 đã đăng ký kê khai diện tích 1459m2 thuộc thửa đất 109, tờ bản đồ số 24, địa chỉ tại khu phố A, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Thửa đất có nguồn gốc là một nền bê tông của Mỹ xây dựng trong chiến tranh, được kéo dài một phần nằm trong diện tích đất trên phần nhà ông H, bà H1 nhận chuyển nhượng nhà, đất của vợ chồng ông Võ Văn N và bà Lê Thị L1 vào năm 1980, phần còn lại thuộc phần đất của Hợp tác xã Đ2, nằm trong diện tích 13.268m2 được Hợp tác xã Đ2 kê khai tại Sổ mục kê năm 1993, thửa số 185, tờ bản đồ số 05. Năm 1985- 1986, E đã cho khai thác để lấy vật tư xây dựng trường học, sau khi khai thác thì ông H, bà H1 là người đã trực tiếp quản lý, sử dụng để trồng cây và hoa màu từ năm 1986 cho đến nay.

[2.2] Xét kháng cáo ông Nguyễn Anh T1 thì thấy.

Theo ông T1, diện tích đất đang tranh chấp 382m2 tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24 có nguồn gốc đất bà T3 (mẹ ông T1) khai hoang từ năm 1976. Nhưng theo sổ đăng ký kê khai ruộng đất năm 1987 thì, diện tích 225m2; thửa số 17, tờ bản đồ số 03 bà T3 kê khai lại, tại sổ mục kê thành thửa đất số 109, tờ bản đồ số 5, diện tích 385m2; năm 2000 bà T3 tiếp tục kê khai lại tại sổ mục kê thành thửa đất số 48, tờ bản đồ số 24, diện tích 386m2. Như vậy, thửa đất bà T3 kê khai tại sổ đăng ký ruộng đất năm 1987 nay chính là thửa đất số 48, tờ bản đồ số 24, diện tích 386m2 và năm 2012 đã được UBND thành phố E cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI 068223 cho bà Trần Thị T3, có vị trí các cạnh; giáp hộ ông Trần Bảo Đ, giáp hộ bà Nguyễn Thị Kim A, giáp đường khu vực và giáp đường H. Như vậy, diện tích ông T1 tranh chấp không liên quan đến gì diện đất ông H bà H1. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 28/9/2022 ông T1 thừa nhận chưa hề sử dung mảnh đất nêu trên, mặt dù đã được UBND Phường 5 quy chủ vào năm năm 2000. Vì vậy, ông T1 cho rằng diện tích đất 382m2 này do bà T3 khai hoang, đăng ký năm 1987 tại thửa số 17, tờ bản đồ số 03 và ông có quyền sử dụng là không có căn cứ.

[3] Như vậy: Phần diện tích đất đang tranh chấp 382m2 tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24 có nguồn gốc nguyên trước đây là nền bê tông của Mỹ (trong chiến tranh) để lại, nằm trong diện tích đất do Hợp tác xã Đ2 kê khai sử dụng tại sổ mục kê năm 1993, thửa số 185, tờ bản đồ số 05. Năm 1985- 1986, E đã cho khai thác để lấy vật tư xây dựng trường học, sau khi khai thác thì ông H, bà H1 là người đã trực tiếp quản lý, sử dụng để trồng cây và hoa màu từ năm 1986 cho đến nay và thực tế, tại thời điểm quy chủ, thì phần diện tích đất 3382m2 do ông H, bà H1 đang quản lý sử dụng. Trên đất tranh chấp đã trồng cây cối hoa màu đều nằm trong khuôn viên do ông H, bà H1 quản lý từ năm 1986, nhưng UBND phường E quy chủ và Sở Địa chính xét duyệt cho ông Nguyễn Anh T1 đăng ký kê khai diện tích 382m2 trong tổng diện tích 1.459m2 tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24 do Ủy ban nhân dân Phường E lập ngày 31/12/2000 và Sở Địa chính (nay là Sở T) tỉnh Quảng Trị xét duyệt ngày 31/12/2000 cho ông T1 là không đúng.

[3.1] Xét thấy: Tòa cấp sơ thẩm đã phân tích đúng các chứng cứ, áp dụng đúng pháp luật. Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với thực tế khách quan nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Anh T1 , giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo của ông Nguyễn Anh T1 không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí, chi phí thẩm định không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực thi hành.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của ông ông Nguyễn Anh T1; Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 16/2023/DSST ngày 25 tháng 5 năm 2023.

Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 33, Điều 34 của Luật đất đai năm 1993; Điều 101 của Luật đất đai năm 2013; Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn về căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Khắc H (Nguyễn Hữu X), bà Hoàng Thị H1. 1.1. Công nhận diện tích đất 382m2 cho ông Nguyễn Khắc H (Nguyễn Hữu X), bà Hoàng Thị H1 mà ông Nguyễn Anh T1 đã kê khai, đăng ký tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24, địa chỉ: Khu phố A, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Ông Nguyễn Khắc H (Nguyễn Hữu X), bà Hoàng Thị H1 được quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo qui định pháp luật. Thửa đất có vị trí:

- Cạnh phía Đông giáp đất ông Nguyễn Khắc H có chiều dài 18,94m;

- Cạnh phía Tây giáp đường giao thông có chiều dài 18,22m;

- Cạnh phía Nam giáp đường giao thông có chiều dài 18,91m;

- Cạnh phía Bắc giáp đất bà Trần Thị T4 có chiều dài 0,50m + 12,16m + 9,49m;

(Kèm theo sơ đồ hiện trạng ranh giới thửa đất ngày 20/8/2021 của Văn phòng Đ1 chi nhánh thành phố Đ thực hiện).

1.2. Hủy đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất trong Sổ mục kê đất của ông Nguyễn Anh T1 đối với diện tích 382m2 trong tổng diện tích 1.459m2 tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 24 do Ủy ban nhân dân Phường E lập ngày 31/12/2000 và Sở Địa chính (nay là Sở T) tỉnh Quảng Trị xét duyệt ngày 31/12/2000.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Anh T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ theo Biên lai tạm ứng án phí số 0000304 ngày 29/6/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị (do ông Lê Tấn P nộp thay).

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí, chi phí thẩm định không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực thi hành theo bản án sơ thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 308/2023/DS-PT

Số hiệu:308/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về