Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 292/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 292/2023/DS-PT NGÀY 27/12/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 27 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 209/2023/TLPT-DS, ngày 31 tháng 8 năm 2023, về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 155/2023/DS-ST ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện P bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 338/2023/QĐXXPT-DS ngày 23 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 337/2023/QĐ- PT ngày 05/12/2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Bà Trương Thị Ngọc K, sinh năm 1956. Nơi cư trú: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - có mặt.

1.2 Ông Trương Châu Minh H, sinh năm 1979. Nơi cư trú: số F, tổ C, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A.

1.3 Bà Huỳnh Thị Ngọc P, sinh năm 1973. Nơi cư trú: số I, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A.

Người đại diện hợp pháp của ông Trương Châu Minh H và bà Huỳnh Thị Ngọc P là bà Trương Thị Ngọc K, sinh năm 1956.

Nơi cư trú: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - có mặt (theo Văn bản ủy quyền ngày 22/8/2023 của Văn phòng Công chứng Huỳnh Thị N và Văn bản ủy quyền ngày 04/10/2023 của UBND xã T, huyện P).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Hồ Hoàng P1 - Văn phòng L2, thuộc Đoàn luật sư tỉnh A - có mặt.

2. Bị đơn: Bà Lưu Thị Kim P2, sinh năm 1967. Nơi cư trú: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lưu Thị Kim P2: Luật sư Bùi Trần Phú T - Văn phòng L3, thuộc Đoàn luật sư tỉnh A. Địa chỉ: số G, đường H, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A - có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Lưu Kim H1, sinh năm 1977 - vắng mặt;

3.2. Bà Lưu Thị Thùy T1, sinh năm 1983 - có mặt Cùng nơi cư trú: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A.

3.3. Ông Lưu Kim B, sinh năm 1972. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - Vắng mặt

3.4. Ông Lưu Tiến Q, sinh năm 1970. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - Vắng mặt.

3.5. Ông Lưu Kim L, sinh năm 1965. Nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện P, tỉnh A - Vắng mặt.

3.6. Bà Lưu Thị Yến T2, sinh năm 1968. Nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh A - Có mặt.

3.7. Ông Nguyễn Hữu N1, sinh năm 1956. Nơi cư trú: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - Có mặt.

3.8. Bà Phạm Thị Bửu T3, sinh năm 1981. Nơi cư trú: F, Thoại Ngọc H2, phường M, TP L (tạm trú tại số F, tổ C, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A) - Vắng mặt.

3.9. Cháu Lê Thị Trúc N2, sinh ngày 30/7/2009 và cháu Lê Thị Trúc QL, sinh ngày 17/5/2015. Cùng nơi cư trú: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A.

Người giám hộ hợp pháp cho cháu N2 và cháu Q1 là bà Lưu Thị Thùy T1, sinh năm 1983. Nơi cư trú: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A là mẹ ruột làm đại diện.

3.10. Bà Nguyễn Thị N3, sinh năm 1970. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - Vắng mặt.

3.11. Ông Trần Hữu L1, sinh năm 1968. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A - Vắng mặt.

3.12. Bà Huỳnh Thị Thùy T4, sinh năm 1972. Nơi cư trú: ấp T (nay Khóm T), thị trấn P, huyện P, tỉnh A - Vắng mặt.

3.13. Bà Trương Hồ Ngọc D, sinh năm 1971. Nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện P, tỉnh A - Vắng mặt.

3.14. Ông Trương Châu Minh G. Nơi cư trú: số A, ấp K, xã K, huyện C, tỉnh A - Vắng mặt.

3.15. Bà Trương Châu Ngọc H3, sinh năm 1981. Nơi cư trú: ấp P (nay là Khóm P), thị trấn C, huyện P, tỉnh A - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai bà Trương Thị Ngọc K; ông Trương Châu Minh H và bà Huỳnh Thị Ngọc P trình bày ý kiến:

Nguyên trước đây, ông bà nội của các nguyên đơn tên Trương Minh T5, sinh năm 1886 và Võ Thị N4 có làm tờ phân chia các phần đất cho các con vào ngày 01/02/1962DL, trong đó phần đất của cha, mẹ của các nguyên đơn tên Trương Minh C (chết 2012) và bà Nguyễn Thị V (chết năm 2014) được phân chia gồm đất thổ cư, diện tích đất vườn tạp và đất trồng rẫy. Cha, mẹ có 06 người con chung gồm: Trương Thị Cẩm C1, sinh năm 1944 (chết năm 2011 theo giấy chứng tử số 20/2012); Trương Thị Kim X, sinh năm 1948; Trương Minh T6, sinh năm 1952 (chết năm 2010 theo giấy chứng tử số 75/2010); Trương Thị Ngọc K, sinh năm 1956; Trương Thị Ánh N5, sinh năm 1960; Trương Thị Thu T7, sinh năm 1969. Vào ngày 09/11/1995 cha, mẹ của các nguyên đơn có làm tờ di chúc phân chia tài sản cho các con và được UBND huyện P cấp giấy chứng nhận; trong đó liên quan đến phần đất thổ cư với diện tích 832m2 được cha, mẹ phân chia như sau:

1. Bà Trương Thị Cẩm C1 hưởng diện tích đất thổ 256m2. Đối với bà C1 (chết) có chồng ông Huỳnh Văn H4 (chết), có 03 người con chung gồm: ông Trần Hữu L1, sinh năm 1968; bà Huỳnh Thị Thùy T4, sinh năm 1972 và Huỳnh Thị Ngọc P, sinh năm 1973; vào ngày 16/12/2016 các anh chị em có lập văn bản thỏa thuận cho phần đất thổ của bà C1 hưởng cho lại bà Huỳnh Thị Ngọc P hưởng và bà P kê khai đăng ký QSDĐ, được U Tân cấp giấy CNQSDĐ số: CH02227, ngày 12/01/2018 với diện tích 226,1m2 cho bà Huỳnh Thị Ngọc P đứng tên, so với diện tích được hưởng còn thiếu 29.9m2 chưa được cấp đủ diện tích.

2. Ông Trương Minh T6 hưởng diện tích đất thổ 400m2. Đối với ông T6 (chết năm 2010) và vợ tên Châu Thị Đ (chết năm 2007), có 04 người con chung gồm: Trương Châu Minh H; Trương Hồ Ngọc D; Trương Châu Minh G và Trương Châu Ngọc H3, vào ngày 18/01/2017 các anh chị em có lập văn bản thỏa thuận cho phần đất thổ của ông T6 hưởng cho lại ông Trương Châu Minh H hưởng và ông H đi kê khai đăng ký QSDĐ, được U Tân cấp giấy CNQSDĐ số: CH02226, ngày 12/01/2018 với diện tích là 274.8m2 cho ông Trương Châu Minh H đứng tên, so với diện tích hưởng còn thiếu 125.2m2 chưa được cấp đủ diện tích.

3. Bà Trương Thị Ngọc K được hưởng diện tích đất thổ 176m2 và K đi kê khai đăng ký QSDĐ, được U Tân cấp giấy CNQSDĐ số: CH02225, ngày 12/01/2018 với diện tích 185,3m2 là cho bà Trương Thị Ngọc K đứng tên, so với diện tích hưởng dư diện tích 9.3m2.

Đến ngày 19/9/2016 bà Trương Thị Ngọc K; bà Huỳnh Thị Ngọc P và ông Trương Châu Minh H có lập văn bản thỏa thuận cho một phần diện tích được hưởng với nhau như sau: bà Huỳnh Thị Ngọc P cho bà K thêm diện tích 24.61m2 và ông Trương Châu Minh H cho bà K thêm diện tích 3.96m2, tổng cộng bà K được diện tích là 176+ 24.61 + 3.96 = 204.57m2.

Trong quá trình kê khai đăng ký quyền sử dụng đất các nguyên đơn gồm: Bà K, ông H5 và bà P kê khai toàn bộ diện tích đủ với phần diện tích hưởng nhưng khi làm thủ tục cấp giấy CNQSDĐ thì đoàn huyện tiến hành đo đạc và cấp cho các nguyên đơn diện tích nhỏ hơn so với diện tích kê khai và thiếu so với phần đất được hưởng nêu trên. Lý do cấp thiếu diện tích các nguyên đơn cho rằng căn nhà của bà C2 đã hình thành trên phần đất lấn chiếm qua, cán bộ đo đạc chừa để né phần đất căn nhà bà C2 nên bỏ phần diện tích này không cấp cho các nguyên đơn.

Tổng diện tích theo di chúc là 832m2, do 03 người đi kê khai đăng ký tổng cộng diện tích = 176m2+ 226,1m2 +274.8m2 =676.9m2, còn lại diện tích 145.86m2 chưa kê khai được (trong đó có 39.1m2 đang tranh chấp với bà Lưu Thị Kim P2, còn diện tích 106.76m2 hiện do bà Trương Thị Ngọc K đang quản lý sử dụng giáp với phía sau phần đất đang tranh chấp do những người giáp ranh chưa thống nhất và ký tên giáp ranh nên chưa kê khai đăng ký theo quy định).

Thời gian sau đó phía bà khuyến có khiếu nại và được UBND huyện P giải quyết như sau: hủy giấy QSDĐ đã cấp cho bà Trương Thị Kim C3 giáp với phần đất của nguyên đơn (do có căn nhà leo ranh qua phần đất đã hưởng); U1 về thực hiện việc kê khai đăng ký bổ sung lại phần diện tích đất còn lại cho các nguyên đơn, khi UBND xã T tiếp nhận và có mời bà Lưu Thị Kim P2 hiện đang ở trên căn nhà lấn chiếm qua phần đất (bà là con ruột bà Trương Thị Kim C3) để xác định các mốc ranh để đo đạc xác định các mốc ranh tiếp giáp để làm thủ tục cấp bổ sung diện tích còn lại nhưng bà P2 không đồng ý. Do đó, các nguyên đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện P giải quyết những vấn đề như sau:

Các nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc K; ông Trương Châu Minh H và bà Huỳnh Thị Ngọc P có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án buộc bị đơn bà Lưu Thị Kim P2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, Bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q, ông Lưu Kim B, bà Nguyễn Thị N3, cháu Lê Thị Trúc N2, cháu Lê Thị Trúc Q1 do bà Lưu Thị Thùy T1 làm đại giám hộ cho 02 cháu phải có nghĩa vụ liên đới tháo dỡ, di dời tài sản trên đất và trả lại diện tích đất lấn chiếm theo yêu cầu diện tích 39,1m2 (diện tích thực tế đo đạc là 37,6 m2) như sau:

1. Lấn chiếm phần đất của bà Trương Thị Ngọc K tổng diện tích thực tế là 19.5m2 2. Lấn chiếm phần đất của bà Huỳnh Thị Ngọc P tổng diện tích thực tế 5.4m2 3. Lấn chiếm phần đất của ông Trương Châu Minh H tổng diện tích thực tế 12.7m2.

Qua xem sơ đồ hiện trạng khu đất của VP ĐKĐĐ chi nhánh P3 vẽ sẽ xem lại và có yêu cầu cụ thể đối với diện tích thực tế đã lấn chiếm của phía bị đơn. Đối với phần diện tích theo đơn khởi kiện lớn hơn so với diện tích thực tế đo vẽ thì xin rút lại một phần không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải không được bị đem bà Lưu Thị Kim P2 trình bày: nguyên trước đây mẹ ruột tên Trương Thị Kim C3 (đã chết năm 2015) và cha tên Lưu Tứ T8 (chết năm 2008) có mua của bà Trần Thị Ánh H6 (chết năm nào không nhớ), chỉ mua bán bằng giấy tay chỉ nói giáp ranh với tứ cận chứ không ghi cụ thể diện tích ngang dài là bao nhiêu, giá là 05 chỉ vàng, vào ngày 06/01/1991, thời gian mua trên 30 năm; khi mua đất thì có căn nhà lá của chủ đất, giấy tờ mua bán không còn giữ nữa; không nhớ thời gian năm nào sửa lại, sống trong căn nhà hư đến đâu sửa lại đến đó; nhớ lúc cha bà còn sống có vay từ nguồn thuộc đối tượng chính sách của Ngân hàng chính sách xã hội huyện P để cuốn nền, không nhớ vào năm nào. Đến năm 2013 thì mẹ tên Trương Thị Kim C3 được UBND huyện cấp giấy CNQSDĐ số CH01226, ngày 13-6-2013, sau đó mẹ bà chết thì bà K, bà p và ông H tranh chấp cho đến nay. Đến năm 2019 UBND huyện P ban hành Thông báo số 843/TB-UBND ngày 03/5/2019 của UBND huyện P về thủ tục cấp giấy cho bà C3 không đúng quy định và Quyết định thu hồi giấy CNQSDĐ của bà C3.

Cha, mẹ chết có tổng cộng 07 người con chung gồm: ông Lưu Kim L; bà Lưu Thị Kim P2; bà Lưu Thị Yến T2; ông Lưu Tiến Q, ông Lưu Kim B, ông Lưu Kim H1 và bà Lưu Thị Thùy T1.

Đối với yêu cầu của bà Trương Thị Ngọc K; ông Trương Châu Minh H và bà Huỳnh Thị Ngọc P yêu cầu bà Lưu Thị Kim P2 và các anh chị em của bà P2 thì không đồng ý, chỉ đồng ý hoàn trả giá trị phần đất leo ranh của căn nhà của bà C3 theo tờ cam kết ngày 01/4/2013 của bà Trượng Thị Kim C4, xác định phần đất của ông bà đang quản lý, sử dụng là đường ranh thẳng từ điểm M1 (cũ số A) đến điểm 21 (trụ đá 47 cũ). Riêng phần diện tích chưa giấy CNQSDĐ giáp ranh thì không có ý kiến hay tranh chấp gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Lưu Kim H1; bà Lưu Thị Thủy T1 cùng đại diện cho cháu Lê Thị Trúc N2 và cháu Lê Thị Trúc QL; ông Lưu Kim B; ông Lưu Tiến Q; bà Nguyễn Thị N3; ông Lưu Kim L; bà Lưu Thị Yến T2: cùng thống nhất với lời trình bày của bà P2, thống nhất phần đất và căn nhà hiện bà P2 đang quản lý, sử dụng là của bà Trương Thị Kim C3 chết để lại chưa được phân chia cho các anh chị em trong gia đình. Đối với phần đất các nguyên đơn yêu cầu các con của bà C3 tháo dỡ, di dời các tài sản trên phần đất từ M1 đến điểm 21 trả lại phần đất cho bà K, bà P và ông H thì không đồng ý, chỉ đồng ý trả giá trị quyền sử dụng đất và giữ nguyên hiện trạng theo giấy CNQSSDĐ của bà C3 đã được UBND huyện cấp, ngoài ra không ý kiến gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyên Hữu N1 trình bày: ông là chồng của bà Trương Thị Ngọc K theo giấy CNQSDĐ số: CH02225, ngày 12/01/2018 với diện tích 185,3m2 là do vợ chồng cùng đứng tên nguồn gốc đất là của bà K hưởng từ cha, mẹ có được, khi kê khai đăng ký QSDĐ thì vợ chồng cùng đứng ra kê khai đăng ký đứng tên chung. Đối với phần đất chưa kê khai đang tranh chấp với gia đình bà P2 thì do bà K quyết định, ông không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Bửu T3 trình bày: bà là vợ của ông Trương Châu Minh H theo giấy CNQSDĐ số: CH02226, ngày 12/01/2018 với diện tích là 274.8m2 do vợ chồng cùng đứng tên nguồn gốc đất là của ông H hưởng từ cha, mẹ có được, khi kê khai đăng ký QSDĐ thì vợ chồng cùng kê khai đăng ký đứng tên chung. Đối với phần đất chưa kê khai đang tranh chấp với gia đình bà P2 thì do ông H quyết định, bà không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ Hên quan gồm ông Trần Hữu L1; bà Huỳnh Thị Thủy T4 cùng thống nhất trình bày: Nguyên trước đây phần đất mà Huỳnh Thị Ngọc P, sinh năm 1973. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện P, tỉnh A kê khai đăng ký và phần đất liền kề giáp ranh với phía bị đơn bà Tưu Thị Kim P2 hiện đang tranh chấp là của cha, mẹ tên Trương Thị Cẩm C1 (chết năm 2011) có chồng ông Huỳnh Văn H4 (chết), có 03 người con chung gồm: ông Trần Hữu L1; bà Huỳnh Thị Thùy T4 và Huỳnh Thị Ngọc P, vào ngày 16/12/2016 các anh chị em có lập văn bản thỏa thuận cho phần đất thổ của anh em được hưởng cho lại bà Huỳnh Thị Ngọc P được hưởng và kê khai đăng ký QSDĐ, được U Tân cấp giấy CNQSDĐ số CH02227, ngày 12/01/2018 với DT 226,1m2 là do bà Huỳnh Thị Ngọc P đứng tên, so với diện tích hưởng còn thiếu 29.9m2 hiện đang tranh chấp với phía bị đơn trong vụ án nêu trên, không có liên quan gì trong vụ án. Đề nghị Tòa án cho vắng mặt tại phiên họp, phiên hoà giải, đối chất và các phiên tòa của Tòa án 02 cấp sau nay đến khi kết thúc vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gôm bà Trương H Ngọc D; ông Trương Châu Minh G; bà Trương Châu Ngọc H3 cùng thống nhất trình bày: Nguyên trước đây phần đất mà Trương Châu Minh H kê khai đăng ký và phần đất liền kề giáp ranh với phía bị đơn bà Tưu Thị Kim P2 hiện đang tranh chấp là của cha, mẹ là ông Trương Minh T6 (chết năm 2010) và bà Châu Thị Đ (chết năm 2007), cha, mẹ có 04 người con chung gồm: Trương Châu Minh H; Trương Hồ Ngọc D và Trương Châu Ngọc H3; Trương Châu Minh G sau khi cha, mẹ chết thì vào ngày 18/01/2017 các anh chị em thống nhất có lập văn bản thỏa thuận cho phần đất thổ của ông T6 được hưởng cho lại Trương Châu Minh H được hưởng và kê khai đăng ký QSDĐ, được U Tân cấp giấy CNQSDĐ số: CH02226, ngày 12/01/2018 với diện tích là 274.8m2 do ông Trương Châu Minh H đứng tên, so với diện tích hưởng còn thiếu 125.2m2 hiện đang tranh chấp với phía bị đơn trong vụ án nêu trên. Hiện nay ông, bà có ý kiến như sau: Đối với phần đất nêu trên đã thống nhất giao cho ông H được quyền thừa hưởng và toàn quyền quyết định, định đoạt đối với phần phấn này, đồng thời ông, bà cũng không còn quyền lợi hay liên quan gì đối với phần đất nêu trên, cũng không có yêu cầu Tòa án xem xét gì hết. Đề nghị Tòa án cho vắng mặt tại phiên họp, phiên hoà giải, đối chất và các phiên tòa của Tòa án 02 cấp sau nay đến khi kết thúc vụ án.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 155/2023/DS-ST ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện P đã quyết định:

Căn cứ vào Điều 26, 35, 39, khoản 1 Điều 147, 157, 165, 228, 244, 271; khoản 1 Điều 273, 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 175, 176, 236, 579 và Điều 580 Bộ Luật dân sự năm 2015; căn cứ Điều 30 Luật đất đai năm 1993; Điều 50 Luật đất đai năm 2003; Điều 59, 100, 167, 168, 170; khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 Điều 18, Điều 20 và Điều 21 của Nghị định số 43/2014 /NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai năm 2013. Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tóa án,

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử một phần rút yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc K; ông Trương Châu Minh H và bà Huỳnh Thị Ngọc P đối với bị đơn bà Lưu Thị Kim P2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, Bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q, ông Lưu Kim B diện tích là 1,5m2 theo đơn khởi kiện.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc K; ông Trương Châu Minh H và bà Huỳnh Thị Ngọc P đối với bị đơn bà Lưu Thị Kim P2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, Bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q và ông Lưu Kim B về tranh chấp “Quyền sử dụng đất”.

2.1 Bà Trương Thị Ngọc K được quyền sử dụng đối với diện tích đất 4,4m2 tại các điểm M1, A1, 39, 41, 23, 22, 45, M4 và M5 theo sơ đồ hiện trạng khu đất của Văn phòng đăng ký đất đai - chi nhánh P4 lập ngày 30/5/2023.

2.2 Bà Huỳnh Thị Ngọc P được quyền sử dụng đối với diện tích đất 1,3m2 tại các điểm M1, A1, 39, 41, 23, 22, 45, M4 và M5 theo sơ đồ hiện trạng khu đất của Văn phong đăng ký đất đai - chi nhánh P4 lập ngày 30/5/2023.

2.3 Ông Trương Châu Minh H được quyền sử dụng đối với diện tích đất 7,5m2 tại các điểm M8, 44, A5, A4 và M14 theo sơ đồ hiện trạng khu đất của Văn phong đăng ký đất đai - chi nhánh P4 lập ngày 30/5/2023.

Bà Trương Thị Ngọc K, bà Huỳnh Thị Ngọc P và ông Trương Châu Minh H có quyền đến cơ quan có thẩm quyền về quản lý đất đai để đăng ký biến động sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.

2.4 Bà Lưu Thị Kim P2, ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, Bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q và ông Lưu Kim B là những hàng thừa hưởng di sản của bà Trương Thị Kim C3 được quyền sử dụng ranh giới phần diện tích đất tại các điểm M1, A1, 39, 41, 23, 22, 45, 3, 44, A5, A4 theo sơ đồ hiện trạng khu đất của Văn phong đăng ký đất đai - chi nhánh P4 lập ngày 30/5/2023; ông bà có quyền đến cơ quan có thẩm quyền về quản lý đất đai để đăng ký biến động sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.

2.5 Buộc bà Lưu Thị Kim P2, ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, Bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q và ông Lưu Kim B cùng liên đới chịu trách nhiệm tháo dỡ, di dời toàn bộ hàng rào tại các điểm 3, 4, A5 và toàn bộ các tài sản khác ra khỏi phần diện tích đất 7,5m2 của ông Trương Châu Minh H thể hiện tại các điểm các điểm M8, 44, A5, A4 và M14 theo sơ đồ hiện trạng khu đất của Văn phong đăng ký đất đai - chi nhánh P4 lập ngày 30/5/2023.

(kèm theo sơ đồ hiện trạng khu đất lập ngày 30/5/2023 là một bộ phận không tách rời của bản án).

2.6 Buộc bà Lưu Thị Kim P2, ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, Bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q và ông Lưu Kim B cùng liên đới chịu trách nhiệm trả cho bà Trương Thị Ngọc K giá trị đất là 5.285.000 đồng (năm triệu hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng); trả cho bà Huỳnh Thị Ngọc P giá trị đất là 1.435.000 đồng (một triệu bốn trăm ba mươi lăm nghìn đồng) và trả cho ông Trương Châu Minh H giá trị đất là 1.820.000 đồng (một triệu tám trăm hai mươi nghìn đồng).

3. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Lưu Thị Kim P2, ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, Bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q và ông Lưu Kim B cùng liên đới chịu trách nhiệm trả cho bà Trương Thị Ngọc K tổng cộng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và đo đạc là 4.437.880 đồng.

Ngày 12/7/2023, nguyên đơn có đơn kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm số 155/2023/DS-ST ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện P, buộc các bị đơn có nghĩa vụ tháo dỡ diện vật kiến trúc để trả lại cho nguyên đơn, cụ thể:

- Trả cho bà K diện tích là 19,5m2 tại các điểm M1, M5, M4, A2 và A1 (trong đó có phần diện tích 15,1m2 là căn nhà của bà C3 tại các điểm A1, 39, 41, 23, 22, 45 và A2 = A1, 42, 43, A2 + 42, 39, 41, 23, 22, 45, 43) - Trả cho bà P được sử dụng phần diện tích là 5,6m2 tại các điểm A2, M4, M8 và A3 (trong đó có phần diện tích 4,1m2 là căn nhà của bà C3 tại các điểm A2, 45, 3, 44 và A3 = 43, 44, 3, 45 + A2, 43, 44, A3) - Trả cho ông H được sử dụng phần diện tích là 12,7m2 tại các điểm A3, M8, M9, M14 và A4 (trong đó có một phần diện tích là nhà mồ và hàng rào của bà C3 tại các điểm 3, 4, A5 và 21) Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa phát biểu:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật.

Nội dung: Qua đối chiếu với yêu cầu của các nguyên đơn buộc tháo dỡ căn nhà, di dời tài sản trên đất và trả lại diện tích đất lấn chiếm từ điểm M1 thẳng đến điểm 21 theo sơ đồ hiện trạng ngày 30/5/2023 thể hiện là có cơ sở nhưng xét về mặt thực tế diện tích lấn chiếm nhỏ, đã hình thành căn nhà cấp IV kiên cố nếu đập phá, tháo dỡ phần vách tường của căn nhà cấp IV theo diện tích lấn chiếm qua sẽ gây thiệt hại rất lớn đến toàn bộ cấu trúc căn nhà là chưa phù hợp với hiện trạng sử dụng đất của các bên, ngoài ra còn một phần ảnh hưởng đến mồ mả của người đã khuất. Do đó, cấp sơ thẩm chấp nhận hoàn trả giá trị tương đương với giá trị đối với diện tích lấn chiếm cho các nguyên đơn là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh A, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, phúc xử: Không chấp nhận kháng cáo của bà Trương Thị Ngọc K, bà Huỳnh Thị Ngọc P, ông Trương Châu Minh H; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 155/2023/DS-ST ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên; sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền xét xử như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là hoàn toàn đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo: Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện P tuyên ngày 04/7/2023, đến ngày 12/7/2023 nguyên đơn kháng cáo bản án. Xét thời hạn kháng cáo, người có quyền kháng cáo đã đảm bảo theo đúng quy định tại Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Tại phiên tòa, một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, tuy nhiên đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Căn cứ khoản Điều Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét kháng cáo:

Tại giai đoạn sơ thẩm, các nguyên đơn Trương Thị Ngọc Khuyến Trương Châu Minh H7 và Huỳnh Thị Ngọc P khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn bà Lưu Thị Kim P2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q, ông Lưu Kim B, bà Nguyễn Thị N3, cháu Lê Thị Trúc N2, cháu Lê Thị Trúc Q1 do bà Lưu Thị Thùy T1 làm giám hộ cho 02 cháu phải có nghĩa vụ liên đới tháo dỡ, di dời tài sản trên đất và trả lại diện tích đất lấn chiếm tổng diện tích phần đất thực tế đo đạc là 37,6m2 và rút lại một phần yêu cầu đối với diện tích theo đơn khởi kiện ban đầu với diện tích là 1,5m2 nên cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử một phần rút yêu cầu khởi kiện theo quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là có căn cứ.

Xét, nguồn gốc đất sử dụng của bà Trương Thị Ngọc K, bà Huỳnh Thị Ngọc P và ông Trương Châu Minh H7 được thừa hưởng từ cha, mẹ đã chết để lại. Ngày 16/12/2016, bà P, ông Trần Hữu L1 và bà Huỳnh Thị Thùy T4 có lập văn bản thỏa thuận cho phần đất thổ cư của cha, mẹ cho bà P sử dụng.

Đất của ông Trương Châu Minh H7 được hưởng từ phần đất của cha đã chết, ông H7, bà D, ông G và bà H3 có lập văn bản thỏa thuận ngày 18/01/2017 cho phần đất thổ cư của cha, mẹ chết để lại cho ông H7 được hưởng.

Bà K, bà P và ông H7 thực hiện kê khai đăng ký và được cấp giấy CNQSDĐ theo quy định nhưng do kê khai đăng ký chưa hết phần diện tích nên phát sinh tranh chấp với phía bị đơn đối với phần đất chưa được cấp giấy CNQSĐ còn lại là phần đất đang tranh chấp do có căn nhà của bà Trương Thị Kim C3 leo ranh qua phần đất của ông, bà được hưởng, đồng thời nguyên đơn xác định ranh giới đất của các nguyên đơn từ trụ đá số 10 cũ (điểm M1 theo sơ đồ hiện trạng mới đo đạc) cho đến trụ đá số 47 (điểm 21).

Bị đơn xác định nguồn gốc đất đang sử dụng do mẹ tên Trương Thị Kim C3 mua của bà Trần Thị Ánh H6 (đã chết), chỉ mua bán bằng giấy tay, chỉ nói giáp ranh với tứ cận, chứ không ghi cụ thể diện tích và kích thước các cạnh; thời gian mua trên 30 năm không nhớ chính xác năm nào, khi mua đất thì có căn nhà lá của chủ cũ, sau đó đã qua nhiều lần sửa chữa cho đến nay. Đến năm 2013 thì bà C3 được UBND huyện cấp giấy CNQSDĐ số CH01226, ngày 13-6-2013. Ngày 3/5/2019 UBND huyện P ban hành thông báo số 843/TB-UBND về việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp không đúng quy định của pháp luật và Quyết định số 3577/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà C3; ngày 20/8/2019, UBND huyện P tiếp tục ban hành Quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01226, ngày 13-6-2013 của UBND huyện P cấp cho bà C3. Bị đơn không khiếu nại quyết định này.

Trong giai đoạn hòa giải cơ sở (Biên bản hòa giải ngày 27/3/2020, 15/10/2020 và 29/10/2020) và trong quá trình giải quyết sơ thẩm giữa nguyên đơn, bị đơn cùng thống nhất căn nhà của bà C3 trước đó xây dựng leo ranh qua phần đất của bà K, đồng thời ranh giới xác định quyền sử dụng đất giữa các đương sự cùng thống nhất từ điểm M1 (Mốc 10 cũ) đến điểm 21 (Mốc 47 cũ) theo sơ đồ hiện trạng khu đất. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn tháo dỡ căn nhà, di dời các tài sản trên phần thì bị đơn không đồng ý mà chỉ đồng ý trả giá trị quyền sử dụng đất và giữ nguyên hiện trạng căn nhà như hiện nay.

Trên cơ sở trình bày của các đương sự; biên bản đề ngày 29/11/2006 và biên bản xác định ranh đất đề ngày 20/12/2006 xác định ranh giới giữa đất của các nguyên đơn và phía gia đình bà Trương Thị Kim C3 được xác định từ trụ đá số 10 cũ (điểm M1) cho đến trụ đá số 47 (điểm 21), kết luận tranh tra số 82/KL-TTr, ngày 27/3/2019 của Thanh tra huyện P và Sơ đồ sơ đồ hiện trạng khu đất do Văn phòng Đ1 chi nhánh P4 lập ngày 17/8/2022 được bổ sung 30/5/2023. Đủ căn cứ xác định: Diện tích đất tranh chấp xác định của các đương sự như sau:

- Bà K được sử dụng phần diện tích là 19,5m2 tại các điểm M1, M5, M4, A2 và A1 (trong đó có phần diện tích 15,1m2 là căn nhà của bà C3 tại các điểm A1, 39, 41, 23, 22, 45 và A2 = A1, 42, 43, A2 + 42, 39, 41, 23, 22, 45, 43) - Bà P được sử dụng phần diện tích là 5,6m2 tại các điểm A2, M4, M8 và A3 (trong đó có phần diện tích 4,1m2 là căn nhà của bà C3 tại các điểm A2, 45, 3, 44 và A3 = 43, 44, 3, 45 + A2, 43, 44, A3) - Ông H7 được sử dụng phần diện tích là 12,7m2 tại các điểm A3, M8, M9, M14 và A4 (trong đó có một phần diện tích là nhà mồ và hàng rào của bà C3 tại các điểm 3, 4, A5 và 21).

Do đó bản án sơ thẩm đã xác định ranh giới sử dụng đất và diện tích đất của các nguyên đơn là có căn cứ. Nguyên đơn và bị đơn đều không kháng cáo đối với phần xác định ranh giới và diện tích tranh chấp này nên phần này của bản án sơ thẩm có hiệu lực. Nguyên đơn chỉ kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm, buộc: bị đơn tháo dỡ, di dời tài sản trên đất để trả lại diện tích lấn chiếm là 19,5m2 cho bà Trương Thị Ngọc K; buộc bị đơn tháo dỡ, di dời tài sản trên đất để trả lại diện tích lấn chiếm là 5,6m2 cho bà P và trả cho ông H7 12,7m2.

Hội đồng xét xử xét thấy: Căn nhà kiên cố của nguyên đơn đã tồn tại từ trước (từ năm 1982), căn nhà bị đơn khi mua (năm 1991) là nhà tạm (bị đơn nêu là nhà tre lá) không rõ kích thước nhưng đến nay đã được sửa chữa nhiều lần, hiện trạng nằm sát vách tường nhà nguyên đơn và được xây dựng dưới mái ngói của nhà nguyên đơn; qua nhiều lần được sửa chữa thì nguyên đơn có lên tiếng phản đối nhắc nhở nhưng phía bị đơn vẫn tiếp tục xây dựng, thậm chí khoét ô văng cửa sổ nhà nguyên đơn để dựng cột và máng xối thoát nước mưa của nhà nguyên đơn cũng nằm trong nhà bị đơn. Do đó xác định lỗi dẫn đến tranh chấp hoàn toàn thuộc về phía bị đơn, đồng thời nếu bản án sơ thẩm được thi hành thì nguyên đơn sẽ buộc phải tháo dỡ mái ngói, cắt bỏ ô văng của sổ, tháo bỏ máng xối căn nhà hiện hữu và mái che nhà mồ phía sau điều này sẽ gây thiệt hại cho nguyên đơn trong khi nguyên đơn không có lỗi, điều này không đảm bảo được lẽ công bằng trong giải quyết tranh chấp. Việc cấp sơ thẩm nhận định “căn nhà của bà C3 leo ranh và nhà mồ đã xây dựng cố định nếu chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn tháo dỡ một phần căn nhà trên diện tích leo ranh thì thiệt hại rất lớn đến toàn bộ kết cấu căn nhà, giá trị thiệt hại là rất lớn và một phần ảnh hưởng nhà mồ của người đã khuất, đồng thời căn cứ vào thực tế nhu cầu sử dụng phần diện tích đất này của các nguyên đơn là không đáng kể” tuy nhiên qua thực tế thì nhà mồ phía bị đơn không ảnh hưởng lớn như bản án sơ thẩm nhận định. Từ phân tích trên cho thấy nguyên đơn kháng cáo là có căn cứ để chấp nhận.

[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Chi phí tố tụng phát sinh tại giai đoạn phúc thẩm nguyên đơn tự nguyện chịu và đã thực hiện xong.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

+ Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

+ Khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Phúc xử:

- Chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc K, ông Trương Châu Minh H7 và bà Huỳnh Thị Ngọc P.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 155/2023/DS-ST ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện P.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc K, ông Trương Châu Minh H7 và bà Huỳnh Thị Ngọc P đối với bị đơn bà Lưu Thị Kim P2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Lưu Kim H1, bà Lưu Thị Thùy T1, ông Lưu Kim L, bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q và ông Lưu Kim B.

Buộc những người trong hàng thừa kế của bà Trương Thị Kim C3 gồm: ông Lưu Kim L, bà Lưu Thị Kim P2, bà Lưu Thị Yến T2, ông Lưu Tiến Q, ông Lưu Kim B, ông Lưu Kim H1 và bà Lưu Thị Thùy T1 phải tháo dỡ, di dời công trình, vật kiến trúc để trả cho các nguyên đơn cụ thể:

- Trả cho bà K diện tích là 19,5m2 tại các điểm M1, M5, M4, A2 và A1 (trong đó có phần diện tích 15,1m2 là căn nhà của bà C3 tại các điểm A1, 39, 41, 23, 22, 45 và A2 = A1, 42, 43, A2 + 42, 39, 41, 23, 22, 45, 43).

- Trả cho bà P diện tích là 5,6m2 tại các điểm A2, M4, M8 và A3 (trong đó có phần diện tích 4,1m2 là căn nhà của bà C3 tại các điểm A2, 45, 3, 44 và A3 = 43, 44, 3, 45 + A2, 43, 44, A3).

- Trả cho ông H7 được sử dụng phần diện tích là 12,7m2 tại các điểm A3, M8, M9, M14 và A4 (trong đó có một phần diện tích là nhà mồ và hàng rào của bà C3 tại các điểm 3, 4, A5 và 21).

Theo Sơ đồ hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh P4 lập ngày 26/8/2022.

Các đương sự được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

- Về án phí phúc thẩm: bà K, bà P và ông H7 không phải chịu án phí DSPT. Bà K, bà P và ông H7 mỗi người được nhận lại 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0006365, 0006366 và 0006364 cùng ngày 17/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P.

- Chi phí tố tụng trong giai đoạn phúc thẩm là 3.000.000 đồng, nguyên đơn tự nguyện chịu và đã thực hiện xong.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Tuật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 292/2023/DS-PT

Số hiệu:292/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về