TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 255/2020/DS-PT NGÀY 22/07/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 22 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 78/2020/TLPT- DS, ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2019/DS-ST, ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 684/2020/QĐ- PTDS, ngày 02 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1940; Cư trú tại ấp T, xã HL, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).
Người dại diện hợp pháp của bà T, có: Bà Đặng Thị N, sinh năm 1968; cư trú tại ấp T, xã HL, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Giấy ủy ngày 13/7/2020 – có mặt).
- Bị đơn: Ông Trương Văn Đ, sinh năm 1961; cư trú tại Tổ 8, Khu phố 7, phường PH, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người đại diện hợp pháp của ông Đ, có: Ông Nguyễn Thái H; cư trú tại 42 HNH, phường PH, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Giấy ủy quyền ngày 19/5/2020 – có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân (gọi tắt: UBND) thành phố BR.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn H1 – Chủ tịch UBND; Địa chỉ 137 đường 27/4, phường PH, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có đơn xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND thành phố BR, có: Ông Vũ Huy H2, sinh năm 1981. Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố BR (có đơn xin vắng mặt ngày 14/11/2019, BL81).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Minh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 29/9/2017 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Nguyễn Thị Minh T, trình bày: Năm 1976 bố của bà T là ông Nguyễn Văn L nhận chuyển nhượng của ông Trương Văn C (bố của ông Trương Văn Đ) 01 lô đất khoảng 9.913m2, khi đó là một thửa, khi chuyển nhượng không có giấy tờ. Sau này thì chia làm nhiều phần nên khi cấp giấy UBND mới tách ra làm hai thửa là: Thửa đất số 403 diện tích 6.391m2 và thửa đất số 402 diên tích 2.728m2 (nay là thửa 559 diện tích 6.391m2 và thửa 567 diện tích 3522,5m2) tờ bản đồ số 24 xã HL, thành phố BR. Do canh tác không hiệu quả nên gia đình bà T chỉ canh tác khoảng 3 năm, đến năm 1980 để cho anh em dòng họ canh tác, trong đó có gia đình ông C là thông gia canh tác thửa 402. Năm 1992 ông L được cấp: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là: GCN.QSDĐ), năm 2004 chỉnh lý sang tên bà T. Khi ông L được cấp GCN gia đình ông C không có ý kiến. Sau khi ông L được cấp GCN thì thửa đất số 402 (567) gia đình ông C vẫn sử dụng, đến khi ông C chết thì ông Đ tiếp tục trồng bạch đàn và ranh giới thửa đất 559 với 567 cũng được xác định bằng hàng cây bạch đàn do ông Đ tự trồng. Năm 2016 ông Đ thu hoạch cây bạch đàn, bà T đến gặp ông Đ để yêu cầu ông Đ trả lại đất, nhưng không gặp được ông Đ nên bà T gửi lại bản photo GCN.QSDĐ của bà T cho ông Đ. Ngày 19/9/2016 bà được Thanh tra thành phố BR mời lên giải quyết khiếu nại của ông Đ về việc tranh chấp QSDĐ thửa 567 với bà T, sau khi hòa giải không thành nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Ông Đ phải trả lại bà T toàn bộ diện tích thửa đất số 567 = 3.721m2 tờ bản đố số 24 xã HL (gọi tắt là: Thửa đất số 567) và yêu cầu hủy GCN.QSDĐ cấp cho ông C (nay là ông Đ) đối với thửa đất số 567.
- Bị đơn ông Trương Văn Đ và người đại diện hợp pháp của ông Đ, trình bày: Năm 1967 cha mẹ ông Đ là ông Trương Văn C và bà Nguyễn Thị A khai phá 02 thửa đất, nay là thửa 559 và thửa 567 như nguyên đơn trình bày. Đến năm 1976 chuyển nhượng cho ông L thửa 559 diện tích 6.391m2 khi chuyển nhượng các bên lập giấy tờ hay không thì ông Đ không biết, còn thửa 567 cha mẹ ông Đ vẫn sử dụng, năm 2005 ông C được cấp GCN.QSDĐ. Năm 2007 ông C bà A lập di chúc tặng cho ông Đ, đến năm 2015 làm thủ tục chuyển sang tên ông Đ. Thửa đất 567 ông C bà A sử dụng ổn định từ năm 1967 đến năm 2007 tặng cho ông Đ và ông Đ tiếp tục sử dụng ổn định không ai tranh chấp, kể cả bà T cũng không có ý kiến gì. Năm 2016 bà T phát hiện GCN.QSDĐ của bà T có thửa đất 567 nên phát sinh tranh chấp với ông Đ. Ông Đ khẳng định cha mẹ ông Đ không có chuyển nhượng thửa đất 567 cho ông L, việc UBND huyện CT cấp GCN.QSDĐ cho ông L là sai, ông Đ không chấp nhận yêu cầu của bà T và yêu cầu hủy GCN.QSDĐ số B414436 đã cấp cho ông L năm 1992 (nay chỉnh sang tên bà T).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thành phố BR, trình bày: Thửa đất 567 hiện bà T và ông Đ đang tranh chấp có nguồn gốc là của ông Trương Văn C khai phá và sử dụng liên tục từ năm 1967, năm 1992 có đăng ký kê khai và đề nghị cấp giấy, khi đó là thửa đất 402 như nguyên đơn trình bày, năm 2002 đăng ký lại là thửa 567, năm 2005 ông C được UBND thành phố BR cấp GCN.QSDĐ số AC 633960, năm 2007 ông C cùng vợ là bà Nguyễn Thị A lập di chúc tặng cho ông Đ, năm 2015 chỉnh lý sang tên ông Đ và ông Đ tiếp tục sử dụng đến nay. Tuy nhiên, năm 1992 Hội đồng xét duyệt cấp GCN.QSDĐ của UBND xã HL căn cứ vào bản kê khai của ông L (bà T ký thay) nguồn gốc đất mua của ông C (không có giấy mua bán) không thẩm tra, xác minh nguồn gốc nhưng vẫn xác nhận là không đúng quy định của pháp luật. Việc xác nhận không đúng nguồn gốc dẫn đến việc UBND huyện CT (nay là UBND thành phố BR) cấp GCN.QSDĐ năm 1992 cho ông L đối với thửa đất 402 (nay là thửa 567) là không đúng. Thực tế thửa đất 402 (mới 567) ông Trương Văn C khai phá và sử dụng từ năm 1967, sau này tiếp tục là ông Đ sử dụng liên tục cho đến nay, ông L và sau này là bà T không có ý kiến gì, năm 2005 ông C được cấp GCN.QSDĐ là đúng pháp luật. Tuy nhiên, khi cấp giấy cho ông C (sau này chỉnh lý sang tên ông Đ) UBND xã HL không phát hiện, kiến nghị điều chỉnh giảm diện tích thửa 402 ra khỏi GCN.QSDĐ số B414436 ngày 10/12/1992 cấp cho ông Nguyễn Văn L, năm 2004 chỉnh lý sang tên bà T trước khi xác nhận cho ông C là thiếu sót của UBND xã HL và đề nghị Tòa án căn cứ vào thực tế sử dụng đất mà xử lý. UBND xin Tòa xét xử vắng mặt.
Ngoài ra Tòa sơ thẩm còn triệu tập các ông bà:
1/ Ông Đặng Văn T1 là chồng bà T đã ly hôn tham gia tố tụng bên bà T, ông T1 đồng ý trình bày của bà T và không có yêu cầu gì, ông T1 xin Tòa giải quyết vắng mặt.
2/ Bà Phùng Thị Y là vợ ông Đ tham gia tố tụng cùng ông Đ: Bà Y đồng ý trình bày của ông Đ và không có yêu cầu gì, Bà Y xin Tòa giải quyết vắng mặt.
3/ Bà Trương Thị L1 (là chị gái của ông Đ): Bà L1 không có yêu cầu gì trong vụ án và xin Tòa giải quyết vắng mặt.
4/ Ông Nguyễn Hữu Th và vợ là Lê Thị H3, trình bày: Vợ chồng ông bà thấy đất trống nên tự ý trồng cây ngắn ngày không hỏi ý kiến của ai, nay các bên tranh chấp, nếu đất thuộc về ai thì ông bà giao lại người đó, không có yêu cầu gì và xin Tòa giải quyết vắng mặt.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2019/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai, Điều 34, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T về việc tranh chấp quyền sử dụng 3.522,5m2 đất thuộc thửa 567, tờ bản đồ số 24 xã HL, thành phố BR (cũ là 2.728m2 thửa 402, tờ bản đồ số 18) với ông Trương Văn Đ.
2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B414436 đã cấp ngày 10/12/1992 cho ông L, đã được chỉnh lý sang tên bà Nguyễn Thị Minh T ngày 23/4/2004, cấp đổi số CA982500 mang tên bà Nguyễn Thị Minh T.
Các đương sự căn cứ vào bản án, có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai đăng ký, xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm; Về chi phí sao lục, đo đạc, định giá tài sản; về quyền và nghĩa vụ trong thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Ngày 03 tháng 12 năm 2019, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T có đơn kháng cáo đối với bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2019/DS-ST, ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Lý do kháng cáo: Bản án sơ thẩm đã không công bằng, thiếu khách quan nên không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà T.
Vì vậy, bà T kháng cáo yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Người kháng cáo bà Nguyễn Thị Minh T, cùng người đại diện theo ủy quyền, trình bày: Giữ nguyên lý do và yêu cầu kháng cáo nêu trên, không cung cấp chứng cứ mới.
- Bị đơn Trương Văn Đ do người đại diện hợp pháp, trình bày: Đất tranh chấp là của ông C cha ông Đ khai phá và canh tác từ năm 1967 đến khi để lại cho ông Đ năm 2007 và ông Đ canh tác liên tục đến nay, việc bà T cho rằng ông C đã chuyển nhượng phần đất đang tranh chấp cho ông L cha bà T vào năm 1976 là không có, vì thế đề nghị Tòa không chấp nhận kháng cáo của bà T, giữ nguyên án sơ thẩm.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ lý đến thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán; Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, không có vi phạm.
Đối với kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T là không có căn cứ, vì việc chuyển nhượng là không có giấy tờ chứng minh trong khi bị đơn không thừa nhận và từ trước đến nay ông L và sau này là bà T đều không có canh tác trên phần đất tranh chấp. Quyết định của Tòa sơ thẩm là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, tại cấp phúc thẩm không có căn cứ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà T, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện tại hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của các đương sự; căn cứ vào kết quả tranh tụng và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục tố tụng: Tòa sơ thẩm xét xử ngày 19/11/2019 đến ngày 03/12/2019 nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T có đơn kháng cáo nên kháng cáo của bà T là hợp lệ được xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Về nội dung:
[1] Đối với kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T, là không có căn cứ để chấp nhận, bởi:
[1.1] Nguyên đơn bà T cùng bị đơn ông Đ và người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan UBND thành phố BR đều thừa nhận thửa đất đang tranh chấp số 567 có nguồn gốc là của ông Trương Văn C và bà Nguyễn Thị A là cha mẹ của bị đơn ông Trương Văn Đ khai phá và sử dụng từ năm 1967 nên xem đây là tình tiết sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và mặc nhiên đất là của ông C, bà A.
[1.2] Nguyên đơn bà T cho rằng thửa đất 567 (cũ là thửa 402) là của ông C đã chuyển nhượng cho cha bà T là ông Nguyễn Văn L vào năm 1976, như vậy nghĩa vụ chứng minh là thuộc về bà T. Bà T không có giấy tờ chứng minh có việc ông C bà A chuyển nhượng thửa đất số 567 cho ông L vào năm 1976, trong khi ông Đ chỉ thừa nhận cha mẹ ông Đ là ông C bà A chỉ chuyển nhượng cho ông L thửa đất 559 (cũ là thửa 403) diện tích 6.391m2 vào năm 1976, riêng thửa đất 567 thì không có chuyển nhượng nên trên thực tế ông C bà A canh tác liên tục từ năm 1967 đến năm 1992 kê khai đăng ký và được cấp GCN.QSDĐ thửa 402 (nay là thửa 567) vào năm 2005, năm 2007 ông C bà A tặng cho ông Đ và ông Đ sử dụng liên tục cho đến năm 2015 ông Đ được chỉnh lý sang tên ông Đ và ông Đ tiếp tục sử dụng đến nay. Lời trình bày của ông Đ được UBND thành phố BR là cơ quan có thẩm quyền cấp GCN.QSDĐ đã thừa nhận có việc sai sót của UBND xã HL trong việc thẩm tra, xác nhận nguồn gốc đất trước khi đề nghị cấp GCN.QSDĐ cho ông L vào năm 1992 đối với thửa 402 (nay là thửa 567) và sau này là chỉnh lý sang tên bà T vào năm 2004. Như vậy, bà T không có căn cứ chứng minh có việc ông L nhận chuyển nhượng thửa đất 567 (cũ là 402) từ ông C bà A vào năm 1976, cho nên sau đó ông C bà A tặng cho ông Đ năm 2007 đến năm 2015 ông Đ được chỉnh lý sang tên thửa đất 567 là phù hợp quy định tại các Điều 100, 106, 166, 167 Luật đất đai năm 2013, vì thế Tòa sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T và hủy GCN.QSDĐ số B414436 đã cấp ngày 10/12/1992 cho ông L, đã được chỉnh lý sang tên bà T ngày 23/4/2004, cấp đổi số CA982500 mang tên bà T là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào mới, nên theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà T, giữ nguyên án sơ thẩm.
[2] Án phí dân sự phúc thẩm: Bà T là người cao tuổi nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí phúc thẩm cho bà T.
[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm; Về chi phí sao lục, đo đạc, định giá tài sản không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 308; các Điều 34, 92, 147, 148; 158, 165, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Áp dụng các Điều 100, 106, 166, 167 Luật đất đai 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T; giữ nguyên án sơ thẩm số 41/2019/DSPT ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T về việc tranh chấp quyền sử dụng 3.522,5m2 đất thuộc thửa 567, tờ bản đồ số 24 xã HL, thành phố BR (cũ là 2.728m2 thửa 402, tờ bản đồ số 18) với ông Trương Văn Đ.
2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B414436 đã cấp ngày 10/12/1992 cho ông L, đã được chỉnh lý sang tên bà Nguyễn Thị Minh T ngày 23/4/2004, cấp đổi số CA982500 mang tên bà Nguyễn Thị Minh T.
Các đương sự có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai đăng ký và xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (kèm theo bản án Sơ đồ vị trí đất do Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lập ngày 11/5/2019).
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí phúc thẩm cho bà T.
4. Các quyết định khác của án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm; về chi phí sao lục, đo đạc, định giá tài sản không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 255/2020/DS-PT
Số hiệu: | 255/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về