Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 223/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 223/2023/DS-PT NGÀY 22/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử trực tuyến phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 14/TLPT-DS ngày 27 tháng 01 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại tài sản và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2640/2023/QĐ-PT ngày 28 tháng 7 năm 2023; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Bà Châu Thị N; địa chỉ: Số G đường G, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị H; địa chỉ: Thôn H, xã S, huyện D, tỉnh Khánh Hòa.

Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của bà Châu Thị N và bà Nguyễn Thị H:: Bà Hồ Thanh T; địa chỉ liên hệ: Hộp thư số D Bưu điện thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Theo n bản ủy quyền s c ng chứng , quyển s T CC- SCC D ngày tại hòng c ng chứng s t nh hánh òa và n bản ủy quyền s , quyển s T CC- CC D ngày tại Văn phòng C3). Có mặt.

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn N1 (chết ngày 27/12/2017) Người kế thừa quyền, nghĩa vụ t tụng của ng Nguyễn N1:

1.1. Bà Phạm Thị X; địa chỉ: Thôn V, xã S, huyện D, Khánh Hòa. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

1.2. Bà Nguyễn Thị Thúy H1; địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện D, Khánh Hòa. Vắng.

1.3. Bà Nguyễn Thị Kiều H2; địa chỉ: D L, thị trấn D, huyện D, Khánh Hòa. Vắng.

Người đại diện theo ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thúy H1, bà Nguyễn Thị Kiều H2: Bà Phạm Thị X; địa chỉ: Thôn V, xã S, huyện D, Khánh Hòa.

Theo n bản ủy quyền s , quyển s T CC- CC D ngày tại Văn phòng C4). Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

1.4. Bà Nguyễn Thị Ngọc H3; địa chỉ: xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa.

Vắng.

1.5. Bà Nguyễn Thị Ngọc H4; địa chỉ: G B, S (Thụy Điển). Vắng.

1.6. Bà Nguyễn Thị Ngọc H5; địa chỉ: Stmnerhamna 4.2212 K, N (Na Uy). Vắng.

1.7. Bà Nguyễn Thị Ngọc H6; địa chỉ: 19540 E 50th PL.DENVER, CO.80249, Hoa Kỳ. Vắng.

2. Bà Phạm Thị X; địa chỉ: Thôn V, xã S, huyện D, Khánh Hòa. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Châu Văn R; địa chỉ: Số G đường G, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Châu Thị N; địa chỉ: Số G đường G, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Theo n bản ủy quyền s , quyển s T CC- CC D ngày tại Văn phòng C5 t nh hánh òa). Có mặt.

2. Ông Châu Văn L; địa chỉ: Số G đường G, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hồ Thanh T; địa chỉ liên hệ: Hộp thư số D Bưu điện thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Theo n bản ủy quyền s , quyển s T CC- CC D ngày tại Văn phòng C6). Có mặt.

3. Bà Châu Thị G; nơi cư trú hiện nay: A K, P, B, Hoa Kỳ. Vắng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Châu Thị N; địa chỉ: Số G đường G, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Theo n bản ủy quyền s , quyển s T CC- CC D ngày tại Văn phòng C5 t nh hánh òa). Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

4. Bà Châu Thị T1 (chết ngày 13/11/2015) Người kế thừa quyền, nghĩa vụ t tụng của bà Châu Thị T1:

4.1. Ông Nguyễn Văn H7 (chết ngày 07/9/2001) 4.2. Ông Nguyễn Văn H8; địa chỉ: Số G đường C, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng.

5. Ông Nguyễn Văn H8; địa chỉ: Số G đường C, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng.

Người đại diện theo ủy quyền của ng H8: Bà Châu Thị N; địa chỉ: Số G đường G, tổ A, thôn P, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Theo n bản ủy quyền s , quyển s - CT C , C ngày tại Văn phòng C7) Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

6. Ủy ban nhân dân huyện D; Trụ sở: 149 đường L, thị trấn D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Hữu H9 – Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện D. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

7. Ủy ban nhân dân xã S; địa chỉ: A đường L, thị trấn D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đình C – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

8. Bà Nguyễn Thị Thúy H1; địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện D, Khánh Hòa.

Vắng. Vắng.

9. Bà Nguyễn Thị Kiều H2; địa chỉ: D L, thị trấn D, huyện D, Khánh Hòa.

Người đại diện theo ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thúy H1, bà Nguyễn Thị Kiều H2: Bà Phạm Thị X; địa chỉ: Thôn V, xã S, huyện D, Khánh Hòa.

Theo n bản ủy quyền s , quyển s T CC- CC D ngày tại Văn phòng C4). Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

10. Bà Nguyễn Thị Ngọc H3; địa chỉ: xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa.

Vắng.

Vắng.

11. Bà Nguyễn Thị Ngọc H4; địa chỉ: G B, S (Thụy Điển). Vắng.

12. Bà Nguyễn Thị Ngọc H5; địa chỉ: Stmnerhamna 4.2212 K, N (Na Uy).

13. Bà Nguyễn Thị Ngọc H6; địa chỉ: 19540 E 50th PL.DENVER, CO.80249, Hoa Kỳ. Vắng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại các đơn khởi kiện, văn bản trình bày ý kiến, nguyên đơn các bà Châu Thị N, Nguyễn Thị H, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Hồ Thanh T trình bày:

Cha mẹ bà Châu Thị N là cụ Châu T2) và cụ Nguyễn Thị T3 ) có 04 người con chung là ông Châu Văn R, bà Châu Thị T1 đã chết ; có chồng là ng Nguyễn Văn H7 đã chết) và con trai là Nguyễn Văn H8), bà Châu Thị N, bà Châu Thị G. Ngoài cụ T3, cụ T2 còn chung sống với vợ 2 là cụ Nguyễn Thị H và có một con chung là ông Châu Văn L. Khoảng năm 1971, cụ T2 tạo lập được lô đất diện tích khoảng 17.000 m2 tại thôn V, xã S, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Năm 1986, cụ T2 cho ông Lê Đức C1 cháu của cụ T2) phần đất có diện tích khoảng 1.900 m2 thuộc lô đất nêu trên. Ngày 25/8/1990, cụ T2 chết không để lại di chúc, toàn bộ diện tích đất do cụ T2 để lại được giao cho ông R thay mặt gia đình tạm thời quản lý và sử dụng. Tháng 3/2009, bà N phát hiện ông R đã tự ý chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn N1 mà không được sự đồng ý của các thành viên trong gia đình. Ông R cho biết ông R chỉ chuyển nhượng 5.000 m2 đất cho ông N1, phần còn lại không chuyển nhượng. Bà N cho rằng ông N1 đã tự viết Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu đề ngày 09/4/1990, đồng thời giả chữ ký của cụ T3 tại phần người sang nhượng trong Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu; nhưng Ủy ban nhân dân xã S vẫn xác nhận vào giấy chuyển nhượng đất nêu trên. Từ năm 2009, bà N đã có đơn khiếu nại, yêu cầu Ủy ban nhân dân xã S giải quyết buộc ông N1 trả lại đất cho các đồng thừa kế của cụ T2 nhưng không có kết quả.

Vì vậy, bà Châu Thị N khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 09/4/1990 giữa ông Châu Văn R và ông Nguyễn N1 đối với thửa đất số 900, tờ bản đồ số 40, diện tích 13060,3m2, yêu cầu bà Phạm Thị X và ông Nguyễn N1 trả lại cho bà N toàn bộ thửa đất nêu trên và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 05350 do UBND huyện D cấp ngày 29/5/2015 cho ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà là vợ 2 của ông Châu T2, B và ông Châu T2 có 1 người con là ông Châu Văn L, sinh năm 1972. Năm 1990, ông Châu T2 chết, năm 2009 bà T3 chết thì B mới biết ông R bán mảnh vườn nêu trên cho ông N1. Nay, bà yêu cầu ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X trả lại phần diện tích 13.060,3m2 đất thuộc thửa đất số 900, tờ bản đồ số 40 tại thôn V, xã S, huyện D và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CH 05350 đối với thửa đất nêu trên do UBND huyện D cấp ngày 29/5/2015 cho ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X.

Tại các văn bản trình bày ý kiến, bị đơn Nguyễn N1 trình bày:

Sau khi cụ T2 chết, ngày 09/4/1990 ông R và cụ T3 đã lập Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu chuyển nhượng toàn bộ lô đất của cụ T2 cho Ông với giá 1.000.000 đồng (tương đương 18 chỉ vàng). Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu nêu trên có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã S. Khi chuyển nhượng do diện tích đất quá rộng không thể đo vẽ chính xác nên trong Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu chỉ ghi tứ cận của lô đất. Trong thực tế, hai bên đã giao đất và nhận vàng, Ông đã quản lý, sử dụng đất ổn định và được Ủy ban nhân dân huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, Ông không đồng ý trả lại đất theo yêu cầu khởi kiện của bà N.

Bị đơn bà Phạm Thị X trình bày: Bà là vợ ông Nguyễn N1, việc mua đất rẫy giữa gia đình với gia đình bà T3 thì B biết nhưng chồng B là người đứng ký trên giấy tờ mua bán. Năm 1999, gia đình Bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 13.000 m2. Quá trình sử dụng đất, năm 2000 vợ chồng Bà cho các con là Nguyễn Thị Ngọc H3 diện tích đất 2.830 m2, Nguyễn Thị Ngọc H4 diện tích đất 3.150 m2. Nay, bà N yêu cầu hủy giấy tờ chuyển nhượng và đòi lại đất, Bà không đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ng Châu Văn R trình bày: Năm 1990, Ông có bán cho ông N1 một lô đất diện tích 5.000m2 trong phần diện tích đất cụ T2 chết để lại với giá 1.000.000 đồng; lúc đó mẹ Ông ở N nên Ông ký thay. Sau khi bán đất xong, Ông có báo cho bà T3 biết, theo giấy chuyển nhượng đề ngày 09/4/1990 không ghi diện tích chuyển nhượng. Ông và ông N1 có đến Ủy ban nhân dân xã S ký giấy xác nhận việc chuyển nhượng. Nay, bà N khởi kiện yêu cầu ông N1 trả đất, Ông không có ý kiến gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Châu Thị G, ng Châu Văn L đều trình bày: Cha của các Ông, Bà là ông Châu T2 đã chết), mẹ là bà Nguyễn Thị T3 đã chết). Khi còn sống, cụ T2 có tạo lập một lô đất tại xã S, diện tích bao nhiêu không rõ. Năm 2009, bà N và ông R có tranh chấp thì các Ông, B mới biết việc ông R tự ý bán đất cho ông N1.

Các ông, bà Châu Thị T1, Châu Thị G, Châu Văn L đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà N.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ng Nguyễn Văn H8 trình bày: Ông H8 là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Châu Thị T1 đã chết) và ông Nguyễn Văn H7 đã chết) đối với yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị H và bà Châu Thị N thì Ô đồng ý và không có ý kiến khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị Thúy H1 trình bày: Cha mẹ Bà là ông Nguyễn N1, bà Phạm Thị X có 06 người con gồm: Nguyễn Thị Ngọc H3, Nguyễn Thị Ngọc H4, Nguyễn Thị Kiều H2, Nguyễn Thị Thúy H1, Nguyễn Thị Ngọc H5, Nguyễn Thị Ngọc H6. Về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp trước đây do ông Châu T2 khai phá trồng hoa màu, ông Châu T2 không sống với bà Nguyễn Thị T3 mà chung sống với bà Nguyễn Thị H ở gần khu vực đó. Sau khi ông T2 mất, bà H bỏ đi nơi khác sống. Sau đó, bà Nguyễn Thị T3 cùng với ông Châu Văn R chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn N1 với giá 01 triệu đồng (tương đương 18 chỉ vàng) có viết giấy chuyển nhượng đất và hoa màu được UBND xã S chứng thực ngày 09/4/1990, trong giấy chuyển nhượng chưa ghi diện tích chính xác vì đất quá rộng chỉ thể hiện Đ, Tây tứ cận. Việc chuyển nhượng đã hoàn thành từ năm 1990, bên bán đã giao đất và nhận vàng, bên mua đã nhận đất và giao vàng, canh tác từ đó đến nay. Như vậy, ông N1 là người sử dụng hợp pháp, ổn định và liên tục từ khi nhận chuyển nhượng đến nay và đã được UBND huyện D cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2000, ông N1 đã xây dựng nhà trên đất và sinh sống ổn định 20 năm nay. Nay, bà N yêu cầu hủy giấy sang nhượng đất rẫy và hoa màu ông N1 đã ký với bà T3, ông R thì Bà không đồng ý.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị Kiều H2 trình bày: Về nguồn gốc thửa đất số 900 tờ bản đồ số 40 thôn V, xã S, huyện D chỉ biết đất do cha Bà là ông Nguyễn N1 mua của ông Châu Văn R. Nay bà N, bà X yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 09/4/1990 thì Bà không đồng ý do đất trên đã được ông N1 mua có giấy tờ hợp pháp và được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng theo quy định pháp luật. Bà đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của bà N và bà H.

Tại văn bản trình bày ý kiến s BND ngày người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND huyện D trình bày:

Ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X được UBND huyện D cấp các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) như sau:

1. Theo Bản đồ đo đạc năm 1990, tổng diện tích đất là 12.965 m2 thuộc tờ Bản đồ số 2a gồm các thửa: Thửa số 385 diện tích 650 m2, thửa số 386 diện tích 3.330m2, thửa số 390 diện tích 8.985m2. Quá trình sử dụng các thửa đất, ông Nguyễn N1 có đăng ký Sổ mục kê ruộng đất năm 1991, do UBND xã S ký.

Bên cạnh đó năm 1990 tổng diện tích 12.965m2 gồm các thửa 385, 386, 390 giữa ông Nguyễn N1 và ông Lê Đức C1 phát sinh tranh chấp, UBND huyện D ra Quyết định số 170/QĐ.UB ngày 03/5/1995 nêu rõ: ông Nguyễn N1 được tiếp tục làm thủ tục đăng ký thống kê để bổ sung cấp GCN tại xã S trên diện tích 12.762m2 mà ông hiện đang quản lý. .

2. Đến năm 1996, xã S thực hiện đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên toàn địa bàn xã thì tổng diện tích đất của ông Nguyễn N1 được đo đạc lại là 13.450m2, ranh giới sử dụng đất ổn định, diện tích đất dôi dư so với đo đạc năm 1990 là do sai số trong đo đạc. Theo bản đồ đo đạc mới năm 1996 thì diện tích đất của ông N1 thuộc tờ bản đồ số 12 xã S gồm các thửa: 182, 178, 253, 254.

- Thửa số 182 diện tích 6.150m2: Ông N1 đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0134 QSDĐ/SH-DK ngày 10/11/1999.

- Thửa 253 diện tích 3.150m2 (CLN): Ông Nguyễn N t cho bà Nguyễn Thị Ngọc H4 (con ông N1), bà H4 có đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01370 QSDĐ/SH-DK ngày 31/01/2000. Quá trình sử dụng đất, bà H4 đã chuyển quyền sử dụng thửa đất số 253 cho ông Nguyễn N1 bằng Hợp đồng số 969 CN ngày 31/7/2003.

- Thửa số 254 diện tích 2.830m2 (CLN): Ông Nguyễn N t cho bà Nguyễn Thị Ngọc H3 (con ông N1), bà H3 đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01371 QSDĐ/SH-DK ngày 31/01/2000. Quá trình sử dụng đất, bà H3 đã chuyển quyền sử dụng thửa đất số 254 cho ông Nguyễn N1 bằng Hợp đồng số 970 CN ngày 31/7/2003.

- Thửa số 178 diện tích 1.320 m2 (CLN), diện tích đất này ông N1 đăng ký trong sổ mục kê ruộng đất năm 1991, ngày 02/6/2014, ông Nguyễn N1 xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 05335 ngày 21/5/2015.

3. Năm 2009, theo dự án hiện đại hóa cơ sở dữ liệu xã S được đo đạc lại toàn bộ, đất của ông Nguyễn N1 được đo đạc mới với diện tích 13.066,3 m2 (diện tích giảm do sai số đo đạc) gồm các thửa 268, 267, 29, 266 tờ bản đồ số 40. Các thửa 268, 267, 29 được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo dự án hiện đại hóa cơ sở dữ liệu xã S, cụ thể:

- Thửa 268 diện tích 6.469,3 m2 (CLN) ( là thửa 182 tờ 12 xã S, bản đồ đo đạc năm 1996), ông Nguyễn N1 được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00024 ngày 10/3/2010.

- Thửa 267 diện tích 3.298,3 m2 (CLN) (là thửa 253 tờ bản đồ 12 xã S, bản đồ đo đạc năm 1996), ông N1 được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00025 ngày 10/3/2010.

- Thửa 29 diện tích 1.971,3 m2 (ONT: 78,4m”, CLN: 1.892,9m2), ông N1 được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00026 ngày 10/3/2010.

- Thửa 266 tờ bản đồ 40 (tức thửa 178 tờ bản đồ 12 xã S, theo bản đồ đo đạc năm 1996) diện tích 1.321,4 m2. Như đã nêu trên, diện tích đất này ông N1 đăng ký trong sổ mục kê ruộng đất năm 1991, ngày 02/6/2014, ông Nguyễn N1 xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 05335 ngày 21/5/2015. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 266 cho ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X là đúng trình tự, thủ tục quy định pháp luật.

4. Trong quá trình sử dụng đất, ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X có đơn đề nghị hợp các thửa đất số 266, 29, 267 268 tờ bản đồ 40 thành thửa đất số 900 tờ bản đồ số 40 với diện tích: 13.060,3m2 (trong đó: ONT: 78,4m2, CLN:

12.981,9m2) của 04 giấy chứng nhận số: CH05335, CH00025, CH00026, CH00024 và đã được UBND huyện cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 29/5/2015 do hợp thửa thành Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH05350 ngày 29/5/2015.

Ngoài ra, trong suốt quá trình sử dụng đất, ông Nguyễn N1 có nộp thuế sử dụng đất cho nhà nước theo quy định.

Như vậy, việc UBND huyện D cấp GCN số BV 578230 số vào số CH05350 cấp ngày 29/5/2015 đối với thửa 900 tờ bản đồ số 40 tại xã S cho ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X là đúng quy định pháp luật. Do đó, UBND huyện D không đồng ý hủy GCN đã cấp theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị H là nguyên đơn trong vụ án;

Đối với việc bà Châu Thị N đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Châu Văn R và ông Nguyễn N1 liên quan đến thửa đất số 900, tờ bản đồ số 40 không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện D;

Đối với việc bà H và bà N yêu cầu ông N1 và bà X trả lại phần diện tích 1.3060.3m2 đất thuộc thửa 900 tờ bản đồ số 40 tại thôn V, xã S không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện D.

Nay, Tòa án đang thụ lý vụ án, UBND huyện D sẽ xem xét giải quyết vụ việc sau khi nhận được Bản án có hiệu lực của Tòa án.

Tại văn bản trình bày ý kiến, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND xã S trình bày:

UBND xã không có hồ sơ, tài liệu lưu giữ liên quan đến “ giấy nhượng đất rẫy và hoa màu” lập ngày 09/4/1990 giữa ông Châu R, bà Nguyễn Thị T3 và ông Nguyễn N1.

          Các cán bộ Nguyễn Văn N2- c ng chức địa chính, ng Phạm Văn  C2- Phó Chủ tịch UBND xã) liên quan đến việc thực hiện “Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu” lập ngày 09/4/1990 giữa ông Châu R, bà Nguyễn Thị T3 và ông Nguyễn N1 đều đã chết nên UBND xã S không có thông tin để cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm s D - T ngày tháng n m của Tòa án nhân dân t nh hánh òa quyết định:

Căn cứ vào Điều 121, Điều 122, Điều 256  Bộ luật dân sự 2005; điểm b khoản 1 Điều 688, Điều 500, Điều 501 và Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 147, Điều 271, Điều 273, khoản 3 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 3 Điều 16 Luật đất đai 1987;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Châu Thị N về việc: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất “ giấy nhượng đất rẫy và hoa mầu” lập ngày 09/4/1990 giữa ông Châu R, bà Nguyễn Thị T3 và ông Nguyễn N1, buộc bà Phạm Thị X và ông Nguyễn N1 trả lại cho bà Châu Thị N toàn bộ thửa đất 900, tờ bản đồ 40, diện tích đo đạc thực tế 13.060,3m2 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 578230, số vào sổ cấp GCN: CH05350 do Ủy ban nhân dân huyện D cấp ngày 29 tháng 5 năm 2015 cho ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H về việc: Buộc bà Phạm Thị X và ông Nguyễn N1 trả lại cho bà Nguyễn Thị H toàn bộ thửa đất 900, tờ bản đồ 40, diện tích đo đạc thực tế 13.060,3m2 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 578230, số vào sổ cấp GCN: CH05350 do Ủy ban nhân dân huyện D cấp ngày 29 tháng 5 năm 2015 cho ông Nguyễn N1 và bà Phạm Thị X.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/12/2022, bà Châu Thị N, bà Nguyễn Thị H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của hai Bà.

Tại phiên tòa:

- Đại diện ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị Tòa án phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử lại sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận và ý kiến của Viện kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng; Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 34/2019/DS-GĐT ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có nhận định: “...Từ trước ngày Miền N3 giải phóng, cụ T2 sống chung với cụ Nguyễn Thị T3 đã chết) và có người con; sống chung với cụ Nguyễn Thị H và có người con, nên quan hệ giữa cụ T2 với cụ T3 và cụ H là hôn nhân thực tế theo quy định tại Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 và theo giấy chứng tử ngày thì cụ T2 chết ngày . Tuy nhiên, tại giấy sang nhượng đất rẫy và hoa màu lập ngày được Ủy ban nhân dân xã S xác nhận cùng ngày) lại có nội dung thể hiện thời điểm lập giấy này cụ T2 đã chết...”; nhận thấy:

[1.1]. Về xác định thời điểm cụ Châu T2 chết: Sau khi thụ lý lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác minh, thẩm tra nhiều tài liệu, chứng cứ có liên quan và đã nhận định: “... kh ng có cơ sở xác định chính xác cụ T2 chết ngày tháng n m nào nhưng đủ cơ sở xác định cụ T2 chết trước ngày là ngày cụ T3, ng R, ng N1 lập “ giấy nhượng đất rẫy và hoa mầu” có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã S”. Nhận định này của cấp sơ thẩm là phù hợp với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

[1.2]. Về xác định hôn nhân thực tế giữa cụ Châu T2 và cụ Nguyễn Thị H: Sau khi Tòa sơ thẩm thụ lý lại vụ án, bị đơn bà Phạm Thị X cung cấp tài liệu, chứng cứ mới là Sổ hộ khẩu số 330078475 do Công an xã S, huyện D, tỉnh Khánh Hòa cấp ngày 28/01/2010 đứng tên cụ Nguyễn Thị H làm chủ hộ; trong đó tên anh Nguyễn Trung D, sinh ngày 06/8/1974, quan hệ với chủ hộ cụ Nguyễn Thị H là “con”. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ anh Nguyễn Trung D là con nuôi hay con đẻ của cụ Nguyễn Thị H; trường hợp là con đẻ thì có phải là con chung của cụ T2 và cụ H không, mà đã nhận định: “... ồng thời, tại ổ hộ khẩu s do Công an xã S, huyện D cấp ngày thể hiện cụ Nguyễn Thị H chủ hộ), nơi thường trú: Tổ F, thôn H, xã S, huyện D có con tên Nguyễn Trung D, sinh ngày . Như vậy, ngoài người con tên Châu Văn L, sinh ngày ... thì cụ Nguyễn Thị H còn có người con tên là Nguyễn Trung D, sinh ngày với người khác... nên kh ng đủ điều kiện áp dụng quy định tại điểm a iều Nghị quyết s N - ngày của u c hội ...”. Nhận định này của cấp sơ thẩm là chưa đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền của bà Nguyễn Thị H trình bày cũng không biết rõ nội dung này. Do đó, xét thấy cần hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa để xác minh làm rõ nội dung trên và xét xử lại theo trình tự sơ thẩm, đảm bảo đúng quy định pháp luật.

[2]. Do hủy án sơ thẩm nên cấp phúc thẩm không xen xét nội dung kháng cáo của bà Châu Thị N, bà Nguyễn Thị H.

[3]. Về xử lý án phí phúc thẩm: Do bà Châu Thị N, bà Nguyễn Thị H thuộc đối tượng được miễn nộp tiền án phí, nên không xét.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 3 Điều 308, khoản 1 Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại tài sản và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 223/2023/DS-PT

Số hiệu:223/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về