Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 212/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 212/2023/DS-PT NGÀY 19/04/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 19 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 623/2022/TLPT- DS ngày 07 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 116/2023/QĐ-PT ngày 16 tháng 3 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Q (chết ngày 10/7/2022) và ông Phan Công U (chết ngày 30/12/2015).

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn:

1/. Bà Phan Thị Xuân H, sinh năm 1951. (vắng mặt) Trú tại: đường B, phường 11, Quận 6, Thành phố H.

2/. Bà Phan Thị Thu Th, sinh năm 1953. (vắng mặt)

3/. Bà Phan Thị Ngọc L, sinh năm 1964. (có mặt)

Cùng trú tại: đường A, Phường 9, Quận 5, Thành phố H.

4/. Bà Phan Thị Lưu Ph, sinh năm 1961. (có mặt) Trú tại: đường Ng, Phường 3, quận G, Thành phố H.

5/. Bà Phan Thị Ngọc Ng, sinh năm 1962. (có mặt) Trú tại: đường L, phường C, Quận 1, Thành phố H.

(Bà Phan Thị Xuân H, bà Phan Thị Thu Th, bà Phan Thị Ngọc L, bà Phan Thị Lưu Ph cùng ủy quyền cho bà Phan Thị Ngọc Ng tham gia tố tụng)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Thanh V - Đoàn Luật sư Thành phố H. (có mặt)

- Bị đơn: Trường Tiểu học H Địa chỉ trụ sở: ấp A, xã H, huyện G, tỉnh B.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Thành Đ. Chức vụ: Hiệu trưởng Trường Tiểu học H. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh B. (có văn bản xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ trụ sở: Khu phố 2, thị trấn G, huyện G, tỉnh B.

2/. Ủy ban nhân dân tỉnh B (vắng mặt) Địa chỉ trụ sở: đường C, Phường 3, thành phố B, tỉnh B.

- Người kháng cáo: Bà Phan Thị Ngọc Ng – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người đại diện theo ủy quyền của các đồng kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn là bà Phan Thị Ngọc Ng trình bày:

Phần đất tranh chấp trước năm 1975 có nguồn gốc của gia đình ông Phan Công U nhưng do chiến tranh loạn lạc nên không thể sinh sống tại đó. Sau năm 1975, bà Q, ông U trở về quản lý, sử dụng phần đất này. Năm 1978, bà Q cho Trường tiểu học H mượn một phần đất thuộc thửa 2154, tờ bản đồ số 4, để cất một phòng học tạm làm điểm dạy học cho học sinh. Việc cho mượn chỉ thỏa thuận bằng miệng, không có giấy tờ gì.

Ngày 11/8/1992, bà Q đã đăng ký chính thức việc sử dụng hai thửa 2154, 2155 tờ bản đồ số 4 tại sổ mục kê ruộng đất của xã H. Ngày 10/09/1992, Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất 2154, 2155 cho bà Q với tổng diện tích 7.050m2. Năm 2004, do đo đạc tọa độ theo bản đồ địa chính đã nhập hai thửa 2154, 2155 thành thửa 45, tờ bản đồ số 33 có diện tích 7.619,4m2. Tháng 07/2012, cho rằng thửa đất 45, tờ bản đồ số 33 trên bản đồ địa chính lập sai nên Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện G đã tiến hành đo đạc, sửa sai theo hiện trạng đất. Tại biên bản số 397/BB-SS đã xác định thửa đất 45, tờ bản đồ số 33 trên bản đồ địa chính lập bị sai và diện tích đúng là 7.638,7m2. Tháng 9/2012, khi vợ chồng ông U, bà Q lập thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì lý do đo đạc tọa độ thì Ủy ban nhân dân huyện G chỉ cấp thửa đất số 192, tờ bản đồ số 33, diện tích 7.380,7m2 (tức một phần thửa 45, tờ bản đồ 33), còn phần đất còn lại có diện tích 300m2 thì không cấp cho bà Q mà không có lý do.

Năm 2016, Trường tiểu học H đã tự ý khai báo không đúng về nguồn gốc đất và nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 2154, tờ bản đồ số 4. Ngày 19/5/2016, Trường tiểu học H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Q không biết sự việc này. Năm 2017, bà Q đã gửi đơn khiếu nại tranh chấp thửa đất số 2154. Ngày 12/02/2018, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Văn bản số 657/UBND-NC không chấp nhận yêu cầu của bà Q nên bà khởi kiện vụ án hành chính. Do đất tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H đã hủy bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh B. Ủy ban nhân dân huyện G cũng có xác nhận việc mượn đất của bà Q, vận động gia đình để đất xây trường học.

Nguyên đơn thống nhất với biên bản định giá tài sản ngày 29/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện G.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Q chết. Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Q vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cụ thể gồm:

- Buộc Trường Tiểu học H trả lại phần đất có diện tích 258m2 thuộc thửa 45, tờ bản đồ số 33 (thửa cũ số 2154, tờ bản đồ số 4), tọa lạc tại xã H, huyện Giống Trôm, tỉnh B, theo đo đạc thực tế có diện tích 250,1m2 thuộc thửa 45a+45b+192a, tờ bản đồ số 33, do trường đã mượn của bà Q từ năm 1978.

- Buộc Trường Tiểu học H di dời toàn bộ công trình xây dựng trên phần đất nêu trên.

- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân tỉnh B (ủy quyền cho Sở Tài nguyên và Môi trường ký) cấp ngày 19/5/2016 cho Trường tiểu học H.

Theo các văn bản trình bày ý kiến số 40/CV-TH đề ngày 17/9/2020, số 43/CV-TH đề ngày 07/6/2021 và trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà Huỳnh Thị Thanh Nh trình bày:

Trường Tiểu học H được tách ra từ Trường phổ thông cơ sở H từ ngày 22/9/1992 theo Quyết định số 74/UB-QĐ ngày 22/9/1992.

Khung trường được hình thành từ trước năm 1975, đã qua nhiều lần sửa chữa, nâng cấp để phục vụ nhu cầu học tập của học sinh. Năm 2015, do số lượng học sinh ít và nhu cầu sắp xếp lại mạng lưới trường, lớp học nên không tổ chức cho học sinh học tại khung trường này. Tuy nhiên do điều kiện thiếu cơ sở vật chất nên trường tiếp tục cho Trường Mẫu giáo H mượn để dạy trẻ mầm non đến năm 2017.

Ngày 28/5/1994, Ủy ban nhân dân tỉnh B có Quyết định số 338/QĐUB về việc hợp pháp hóa các điểm trường cấp I, cấp II xã H, huyện G đã sử dụng từ trước đến nay để sửa chữa, nâng cấp trường lớp, có chứng nhận Trường phổ thông cơ sở xã H được sử dụng 13.195m2 đất, trong đó có thửa đất số 2154, tờ bản đồ số 4, diện tích 300m2. Năm 2003, Trường Tiểu học H được Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền quản lý, sử dụng nhà đất thuộc trụ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước tại các cơ quan hành chính sự nghiệp thửa đất số 2154, tờ bản đồ số 4, tổng diện tích 306m2, nguồn gốc thửa đất chế độ cũ để lại.

Ngày 19/5/2016, trường làm hồ sơ xin cấp sổ bìa hồng và được Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 45, tờ bản đồ số 33, diện tích 285m2; mục đích sử dụng: Đất xây dựng cơ sở giáo dục và đào tạo.

Từ trước năm 1975 đến nay, trường được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để trường quản lý và thực hiện mục đích cho giáo dục và đào tạo. Hiện trạng thửa đất tranh chấp từ khi trường quản lý, sử dụng đến nay không thay đổi.

Vì vậy, trường không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì phần đất tranh chấp là tài sản công do Nhà nước quản lý; trường được Nhà nước giao quản lý.

Theo văn bản trình bày ý kiến số 2204/UBND-NC đề ngày 06/7/2020, Ủy ban nhân dân huyện G trình bày:

Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của gia đình ông Phan Văn M (cha chồng của bà Q) do chính quyền chế độ cũ sử dụng để xây dựng trường học từ trước năm 1975. Đến năm 1975, chính quyền cách mạng tiếp thu, quản lý và tiếp tục sử dụng làm trường học. Sau đó, Ủy ban nhân dân tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trường tiểu học H quản lý, sử dụng từ năm 2003 đến nay.

Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/9/1992 cho bà Q, trong đó có thửa đất số 2154, tờ bản đồ số 4, diện tích 300m2 đất thổ cư là không đúng quy định của pháp luật, sai mục đích sử dụng, sai đối tượng sử dụng. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Q vào năm 1992, bà Q không sử dụng thửa đất số 2154 mà do Trường Tiểu học H sử dụng với mục đích đất giáo dục. Căn cứ Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành, trường hợp phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp sai thì phải thu hồi. Do đó, Văn phòng đăng ký đất đai huyện G đã đóng dấu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Q tại thời điểm bà Q cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2012 đối với thửa đất số 2154, tờ bản đồ số 4 theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 42 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/01/2004 của Chính phủ. Vì vậy, Ủy ban nhân dân huyện G không thực hiện quy trình thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ.

Năm 2012, Ủy ban nhân dân huyện G chỉ cấp đổi cho bà Q thửa đất số 2155, tờ bản đồ số 4, diện tích 6.750m2 (thửa mới số 192, tờ bản đồ số 33, diện tích 7.380,1m2) là cấp đầy đủ cho bà Q phần đất mà gia đình bà đang sử dụng. Thời điểm bà Q làm thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2012 thì thửa đất số 2154, tờ bản đồ số 4 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trường tiểu học H và không ai hỏi mượn đất của bà Q để xây dựng trường học.

Ủy ban nhân dân huyện G yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

Tại văn bản trình bày ý kiến số 515/UBND-NC đề ngày 27/012022, Ủy ban nhân dân tỉnh B trình bày:

Ủy ban nhân dân tỉnh B bảo lưu ý kiến về nội dung Công văn số 3382/UBND-NC ngày 20/7/2018 cũng như các tài liệu, chứng cứ do Ủy ban nhân dân tỉnh B giao nộp trong vụ án hành chính giữa bà Nguyễn Thị Q với Chủ tịch UBND tỉnh B.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 09 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh B đã quyết định:

Căn cứ Điều 166, 170, 203 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Phan Công U, bà Nguyễn Thị Q là bà Phan Thị Xuân H, bà Phan Thị Thu Th, bà Phan Thị Ngọc L, bà Phan Thị Lưu Ph, bà Phan Thị Ngọc Ng về việc buộc Trường Tiểu học H phải trả lại phần đất có diện tích 258m2 thuộc thửa 45, tờ bản đồ số 33 (thửa đất cũ 2154, tờ bản đồ số 4), theo đo đạc thực tế có diện tích 250,1m2 thuộc thửa 45a+45b+192a, tờ bản đồ số 33, toạ lạc tại xã H huyện G, tỉnh B và phải di dời toàn bộ công trình xây dựng trên diện tích đất nêu trên. (Có hồ sơ đo đạc ngày 14/01/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện G kèm theo, là một bộ phận không thể tách rời của bản án này) Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Phan Công U, bà Nguyễn Thị Q là bà Phan Thị Xuân H, bà Phan Thị Thu Th, bà Phan Thị Ngọc L, bà Phan Thị Lưu Ph, bà Phan Thị Ngọc Ng về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân tỉnh B (ủy quyền cho Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B ký) cấp ngày 19/5/2016 cho Trường Tiểu học H.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 14/9/2022, bà Phan Thị Ngọc Ng đại diện cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Phan Thị Ngọc Ng vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Phan Thị Ngọc Ng đưa ra các lập luận và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà N, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người đại diện theo pháp luật của Trường tiểu học H đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà Phan Thị Ngọc Ng, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về chấp hành pháp luật: Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà Phan Thị Ngọc Ng, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1]. Về hình thức: Đơn kháng cáo của bà Phan Thị Ngọc Ng làm trong hạn luật định, hợp lệ về hình thức nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Nguyên đơn ông Phan Công U, bà Nguyễn Thị Q (có bà Phan Thị Xuân H, bà Phan Thị Thu Th, bà Phan Thị Ngọc L, bà Phan Thị Lưu Ph, bà Phan Thị Ngọc Ng kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng) khởi kiện yêu cầu Trường Tiểu học H di dời toàn bộ công trình xây dựng, trả lại phần đất có diện tích 258m2 thuộc thửa 45, tờ bản đồ số 33 (thửa đất cũ 2154, tờ bản đồ số 4), theo đo đạc thực tế có diện tích 250,1m2, toạ lạc tại xã H huyện G, tỉnh B.

Các đương sự đều thừa nhận phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cụ Phan Văn M là cha chồng của bà Nguyễn Thị Q quản lý, sử dụng từ trước năm 1954. Phía nguyên đơn cho rằng do dịch giã nên gia đình nguyên đơn bỏ đi nơi khác sinh sống; đến năm 1975 thì quay trở lại phần đất này, năm 1978 bà Q cho Trường tiểu học H mượn đất để xây trường. Bị đơn Trường tiểu học H cho rằng phần diện tích đất này Trường được giao từ trước năm 1975, thuộc trường hợp tài sản công được Nhà nước giao quản lý từ trước đến nay nên không đồng ý với yêu cầu của phía nguyên đơn.

[2.2]. Xét thấy, phía nguyên đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh có quá trình sử dụng phần diện tích đất tranh chấp từ năm 1975 đến nay; đồng thời cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc cho Trường tiểu học H mượn đất để mở lớp học như đã trình bày.

Căn cứ vào các biên bản xác minh đối với bà Nguyễn Thị B, ông Nguyễn Văn R, ông Nguyễn Văn Đ, bà Hồ Thị Ph xác định Trường học được chính quyền cũ xây dựng từ trước năm 1975, lúc đầu chỉ là nhà lá tạm bợ, sau năm 1975 chính quyền tiếp tục sửa chữa và xây mới để tiếp tục dạy học.

Tại Biên bản làm việc ngày 29/11/2017 của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, bà Q xác định trước năm 1954, chính quyền chế độ cũ có rào một phần đất của gia đình bà để cất trường học, diện tích bao nhiêu bà không rõ. Năm 1958, gia đình bà bỏ đất để chuyển về Sài Gòn sinh sống, đến năm 1975 mới quay về, tại thời điểm đó trường học vẫn còn, nhưng không còn dạy học nữa. Năm 1978, chính quyền địa phương sửa chữa lại trường để tiếp tục dạy học. Đến năm 2006, trường mới được xây dựng kiên cố. Năm 2015, Trường Tiểu học H dời về khung trường chính nhưng vẫn sử dụng điểm trường này để làm trường mẫu giáo. Đến năm 2017, trường không còn hoạt động nữa nên bà Q mới yêu cầu trường học trả lại đất cho bà.

Căn cứ theo Biên bản làm việc ngày 25/9/2018 và Biên bản thu thập chứng cứ ngày 08/9/2020, bà Hồ Thị Ph trình bày sau năm 1975 khi ông U, bà Q mua lại phần đất mà trước đây cụ M đã bán cho cha bà là cụ Hồ Quang S (X), trong đó có phần đất tranh chấp thì không tính phần đất có trường học.

Như vậy, có căn cứ xác định phần đất tranh chấp do Trường Tiểu học H quản lý, sử dụng từ trước năm 1975 đến nay. Quá trình sử dụng đất, Trường Tiểu học H đã đăng ký kê khai quyền sử dụng đất và năm 2003 được UBND tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền quản lý sử dụng nhà đất thuộc trụ sở làm việc sở hữu Nhà nước, trong đó có thửa 2154, tờ bản đồ số 4; đến ngày 19/5/2016 thì được Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[2.3]. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gia đình bà Q được cấp, thấy rằng:

Ngày 10/9/1992, bà Q được UBND huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất thửa 2154, diện tích 300m2 (loại đất T) và thửa 2155, diện tích 6.750m2 (loại đất CN), tờ bản đồ số 4, tổng diện tích đất là 7.050m2, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh B. Thời điểm năm 1992, UBND huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất thuộc thửa 2154, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại xã H, huyện G cho bà Nguyễn Thị Q nhưng không kiểm tra rà soát kỹ quá trình sử dụng đất nên đã cấp sai mục đích sử dụng và không đúng đối tượng sử dụng đất trên thực tế. Khi bà Q làm thủ tục xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND huyện G đã phát hiện sai sót trên và tiến hành thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 2154, tờ bản đồ số 4 nhưng không ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, dẫn đến việc bà Q cho rằng khi cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2012, bà Q bị cấp thiếu thửa đất số 2154.

Đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Q năm 2012 thấy rằng: theo Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 12/7/2012 để tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo yêu cầu bà Q (theo sơ họa ranh giới, mốc giới thửa đất là thửa số 192) thể hiện Trường tiểu học H có ký xác nhận ranh giới, mốc giới sử dụng đất, chứng minh bà Q đã biết thửa đất số 45 do Trường tiểu học H quản lý, sử dụng là giáp ranh với thửa đất số 192 mà bà đang quản lý, sử dụng và thời điểm này bà Q cũng không có khiếu nại hay tranh chấp gì. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 192, tờ bản đồ số 33 cũng đã được đo đạc và hiệp thương ranh đất, có sự đồng ý và ký tên của người sử dụng đất giáp ranh, trong đó có Trường tiểu học H. Vì vậy, bà Q cho rằng thời điểm năm 2012, UBND huyện G cấp thiếu thửa đất số 45 cho bà Q là không có cơ sở.

[2.4]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Phan Thị Ngọc Ng cung cấp các biên lai nộp thuế nhưng cũng không thể hiện nộp thuế tại thửa đất đang tranh chấp nên không có cơ sở xem xét.

[2.5]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Trường tiểu học H trả lại diện tích đất tranh chấp, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND tỉnh B cấp cho Trường tiểu học H là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà Phan Thị Ngọc Ng; cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Phan Thị Ngọc Ng phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bà Phan Thị Ngọc Ng.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Căn cứ Điều 166, 170, 203 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Phan Công U, bà Nguyễn Thị Q là bà Phan Thị Xuân H, bà Phan Thị Thu Th, bà Phan Thị Ngọc L, bà Phan Thị Lưu Ph, bà Phan Thị Ngọc Ng về việc buộc Trường Tiểu học H phải trả lại phần đất có diện tích 258m2 thuộc thửa 45, tờ bản đồ số 33 (thửa đất cũ 2154, tờ bản đồ số 4), theo đo đạc thực tế có diện tích 250,1m2 thuộc thửa 45a+45b+192a, tờ bản đồ số 33, toạ lạc tại xã H huyện G, tỉnh B và phải di dời toàn bộ công trình xây dựng trên diện tích đất nêu trên. (Có hồ sơ đo đạc ngày 14/01/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện G kèm theo, là một bộ phận không thể tách rời của bản án này) Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn ông Phan Công U, bà Nguyễn Thị Q là bà Phan Thị Xuân H, bà Phan Thị Thu Th, bà Phan Thị Ngọc L, bà Phan Thị Lưu Ph, bà Phan Thị Ngọc Ng về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân tỉnh B (ủy quyền cho Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B ký) cấp ngày 19/5/2016 cho Trường Tiểu học H.

Án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác được thực hiện theo quyết định của bản án sơ thẩm.

Bà Phan Thị Ngọc Ng phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm;

được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009778 ngày 14/9/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B vào phần án phí phải chịu.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 212/2023/DS-PT

Số hiệu:212/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về