TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 19/2024/DS-PT NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 12 và ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 89/2023/TLPT-DS ngày 10 tháng 7 năm 2023, về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2023/DS-ST ngày 18 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 157/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Lữ Thị H, sinh năm 1965. Có mặt
2. Ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1965. Có mặt
Địa chỉ: Ấp Đ, thị trấn N, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
- Bị đơn: Ông Ngô Thanh S, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Đại diện theo ủy quyền của ông S: Bà Mai Thị Ngọc O (VBUQ ngày 30/01/2024). Có mặt.
Địa chỉ: Số E, phường T, quận N, Thành phố Cần Thơ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Ngô Quang D, sinh năm 1962.
Địa chỉ: I M, phường X, quận N, TP cần Thơ.
2. Bà Ngô Thị Cẩm V, sinh năm 1963. Có mặt
Địa chỉ: 1 T, khu V, phường C, quận N, TP Cần Thơ.
3. Ông Ngô Quang C, sinh năm 1967.
4. Ông Ngô Quang D1, sinh năm 1975.
5. Ông Ngô Hoàng N1, sinh năm 1977.
Cùng địa chỉ: Ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Đại diện theo ủy quyền của ông D, ông D1, ông N1, bà V: Bà Mai Thị Ngọc O (VBUQ ngày 30/01/2024), địa chỉ nêu trên.
* Người kháng cáo: Ông Ngô Thanh S - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn bà Lữ Thị H trình bày: Năm 2006, bà có mua đất của ông T (là con của ông Bùi Văn S1), khi mua có làm giấy tay diện tích thực tế 4.374m2, đến năm 2008 bà được cấp giấy đỏ diện tích 2.785m2, trên phần đất này có kênh thủy lợi cũ, bà đã xin sang lấp kênh thủy lợi do hết công dụng, đến năm 2015 bà làm đơn xin chỉnh lý diện tích đất theo thực tế sử dụng, năm 2016 bà được cấp giấy đỏ diện tích 4.218,3m2 khi cấp giấy lại nhỏ hơn diện tích thực tế sử dụng 4.374m2. Khi bà mua đất của ông T và ông Đ chỉ ranh phần đất giáp kênh thủy lợi do nhà nước quản lý. Phần đất bà mua không có giáp với phần đất của ông Ngô Văn H1. Bà sử dụng ổn định đến tháng 3 năm 2018 thì anh Ngô Thanh S nhổ trụ ranh cho rằng phần đất của ông Ngô Văn H1 từ kênh thủy lợi vô đất của bà diện tích 78,4m2. Nay bà yêu cầu Tòa án công nhận cho bà phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế 78,4m2 vì thực tế phần đất tranh chấp không có giáp ranh với bên ông H1. Do ông Ngô Văn H1 đã mất nên bà và ông N rút yêu cầu khởi kiện đối với ông H1, bà khởi kiện ông S và yêu cầu những người liên quan chấm dứt hành vi cản trở bà sử dụng đất. Bà thống với lược đồ đo đạc phần đất tranh chấp 78,4m2 và kết luận định giá tài sản.
Ông Huỳnh Văn N thống nhất lời trình bày của bà Lữ Thị H.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn Ngô Thanh S là bà Ngô Thị Cẩm V trình bày: Bị đơn không thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, theo bị đơn phần đất tranh chấp 78,4m2 là phần đất của ông Ngô Văn H1. Bị đơn yêu cầu Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn bà H, ông N, công nhận phần đất tranh chấp 78,4 m2 này cho ông Ngô Văn H1. Do ông H1 đã mất nên đề nghị Tòa án công nhận phần đất này cho ông H1 vì phần đất này thuộc thửa 429 của ông H1. Ông H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 412, diện tích 850m2, thửa 429 diện tích 350m2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp năm 1997, khi ông H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 412 và 429 có kênh tự nhiên, kênh tự nhiên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2005 thì gia đình bị đơn mới lấp kênh tự nhiên nhưng có đặt bọng thoát nước ra sông. Tuy nhiên gia đình bị đơn chưa chỉnh lý phần đất theo thực tế sử dụng.
Năm 2000, ông Ngô Văn H1 có hiến đất làm lộ và kênh thủy lợi, phần đất hiến thuộc thửa 429. Theo bị đơn phần đất tranh chấp diện tích 78,4m2 là của ông Ngô Văn H1, bị đơn yêu cầu Tòa án buộc bà H, ông N phải trả lại phần đất này và tự di dời cây trồng trả lại cho ông H1 78,4m2.
Bị đơn thống nhất với lược đồ đo đạc phần đất tranh chấp 78,4m2 và kết luận định giá tài sản.
Bị đơn trình bày Ngô Văn H1 mất năm 2021 có làm giấy khai tử, còn bà Lê Thị M mất năm 2020 chưa làm giấy khai tử.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Cẩm V trình bày: Bà không thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, theo bà phần đất tranh chấp 78,4m2 là phần đất của ông Ngô Văn H1 tại thửa 429. Bà yêu cầu Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn bà H, ông N công nhận phần đất tranh chấp 78,4m2 này cho ông Ngô Văn H1. Bà thống với lược đồ đo đạc phần đất tranh chấp diện tích 78,4m2 và kết luận định giá tài sản.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Quang D trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của bà Ngô Thị Cẩm V. Phần đất tranh chấp 78,4m2 ông cho rằng đây là đất của cha là ông Ngô Văn H1 nên ông đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà H và ông N. Ông không đồng ý với công văn trả lời của Ủy ban nhân dân huyện C đối với phần đất thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H. Ông đã khiếu nại đến Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy H2, Đài truyền hình tỉnh H về những vi phạm của những cán bộ cấp giấy đỏ cho bà H là trái quy định của pháp luật. Hiện nay Đài truyền hình đã xác minh. Ông yêu cầu công nhận phần đất 78,4m2 thuộc sở hữu của ông Ngô Văn H1 vì đây là phần đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của ông Ngô Quang C, ông Ngô Quang D1, ông Ngô Hoàng N1 là bà Ngô Thị Cẩm V trình bày: Không thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, theo bà phần đất tranh chấp 78,4m2 là phần đất của ông Ngô Văn H1 tại thửa 429. Bà yêu cầu Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn bà H, ông N công nhận phần đất tranh chấp 78,4m2 này cho ông Ngô Văn H1. Bà thống nhất với lược đồ đo đạc phần đất tranh chấp 78,4m2 và kết luận định giá tài sản.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2023/DS-ST ngày 18 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang đã tuyên xử như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn N và bà Lữ Thị H. Buộc bị đơn Ngô Thanh S, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngô Quang C, Ngô Quang D1, Ngô Hoàng N1, Ngô Thị cẩm V, Ngô Quang D trả lại cho nguyên đơn Huỳnh Văn N, Lừ Thị Hồng phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế có diện tích 78,4m2 (nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn Lữ Thị H).
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lữ Thị H, Huỳnh Văn N đối với bị đơn Ngô Văn H1 do nguyên đơn rút yêu cầu.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Ngày 21/4/2023, ông Ngô Thanh S nộp đơn kháng cáo yêu cầu phúc thẩm xem xét bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS - ST ngày 18 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, theo hướng sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự trình bày:
Phía nguyên đơn - ông Huynh Văn N, bà Lữ Thị H trình bày: Thống nhất với bản án cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Phía bị đơn - ông Ngô Thanh S trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Cẩm V trình bày: Thống nhất với đơn kháng cáo của bị đơn ông Ngô Thanh S và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Quang D trình bày: Ông thống nhất ý kiến với bị đơn Ngô Thanh S. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xem xét lại toàn bộ hồ sơ vụ án, sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì phần đất tranh chấp là thuộc quyền sở hữu của ông và trên phần đất tranh chấp có phần mộ của người em tên Ngô Thị Cẩm N2, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử xác định bị đơn ông Ngô Thanh S là không đúng đối tượng và hồ sơ thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là không đúng, có sự giả mạo chữ ký của các hộ giáp ranh. Ông yêu cầu giám định chữ ký của các hộ giáp ranh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của ông Ngô Quang C, ông Ngỏ Quang D1, ông Ngô Hoàng N1 là bà Ngô Thị Cẩm V trình bày: Thống nhất với đơn kháng cáo của bị đơn ông Ngô Thanh S và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm: Về tố tụng, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Ngô Thanh S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Xét nội dung kháng cáo của ông Ngô Thanh S, Hội đồng xét xử nhận thấy: Phần đất tranh chấp theo kết quả đo đạc thực tế có diện tích 78,4m2, tọa lạc tại ấp p, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
[1] Về nguồn gốc phần đất tranh chấp:
Nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp có nguồn gốc của nguyên đơn Lữ Thị H mua của ông Bùi Văn T1 (con của ông Bùi Văn S1), khi mua chỉ làm giấy tay, đến năm 2008 nguyên đơn Lữ Thị H được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 00836 với diện tích 2785m2, trên phần tranh chấp có kênh thủy lợi nên nguyên đơn lắp kênh để sử dụng; đến năm 2016 nguyên đơn xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 01720 với diện tích 4218,3 m2. Khi nguyên đơn chuyển nhượng phần đất của nguyên đơn cho người khác thì bị đơn ngăn cản cho rằng phần đất tranh chấp là của bị đơn.
Theo bị đơn phần đất tranh chấp thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Ngô Văn H1 (ông H1 đã chết năm 2021), phần đất tranh chấp là kênh tự nhiên, phía bị đơn chưa chỉnh lý phần đất theo thực tế sử dụng, bị đơn yêu cầu công nhận phần đất tranh chấp có diện tích 78,4m2 cho bị đơn.
[2] Qua đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện phần đất có nguồn gốc là của địa chỉ Trần Lư. Vào năm 1955 cha ông Ngô Văn H1 là ông Ngô Văn G chiếm canh tác. Ông Ngô Văn H1 được Bộ điền thổ và cải cách điền địa thuộc chế độ cũ chứng nhận cấp ruộng đất theo Chỉ dụ số 57 ngày 22/10/1956 với diện tích là 20.160m2. Năm 1961 qua động viên của chính quyền cách mạng ông H1 giao lại phần đất 10.400 m2 cho chính quyền, sau đó phần đất được trang trải cho nhiều người, cuối cùng chính quyền ấp P giao lại cho ông Bùi Văn S1 canh tác.
Vào năm 1992 ông H1 khiếu nại đòi lại phần đất 10.400 m2 thuộc phần đất theo Chỉ dụ số 57, với lý do vào năm 1968 ông H1 cho ông S1 mượn đất. Tuy nhiên, tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 1746/QĐ-CT.UB ngày 25/6/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh C cũ đã xác định vào thời điểm giao phần đất cho ông S1 thì ông H1 tản cư, các hộ còn lại bám trụ sản xuất và được chính quyền cách mạng bảo vệ. Cho đến năm 1975 phần đất trên tiếp tục giao cho ông S1 nhưng ông H1 vẫn không tranh chấp, nên việc khiếu nại đòi lại phần đất đã cấp cho ông S1 là không có cơ sở và giữ nguyên quyết định giải quyết của UBND huyện C.
Như vậy phần đất tranh chấp trước đây ông Ngô Văn H1 đã có đơn khiếu nại và được người có thẩm giải quyết bác khiếu nại của ông H1 không chấp nhận việc khiếu nại đòi lại đất của ông H1. Phần đất tranh chấp đã giao cho ông Bùi Văn S1 sử dụng ổn định sau này ông S1 cho lại con là Bùi Văn T1 tiếp tục sử dụng.
Tại phiên tòa đại diện ủy quyền bị đơn thừa nhận đất tranh chấp đã được cấp cho nguyên đơn bà H. Bị đơn cho rằng không biết không biết việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này của bà H, nên không có khiếu nại, ý kiến này không có cơ sở để chấp nhận.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng do không đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông H1 vào tham gia tố tụng. Tuy nhiên, do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã khẳng định là cấp cho bà H. Nên việc cấp sơ thẩm không đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông H1 vào tham gia tố tụng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; Hơn nữa nguyên đơn cũng đã rút đơn khởi kiện đối với ông H1, do ông H1 đã chết.
Ngoài đại diện bị đơn cho rằng việc cấp sơ thẩm lấy kết quả định giá cũ là không phù hợp. Tuy nhiên, kết quả định giá được các bên đương sự thống nhất và không có khiếu nại gì, không ảnh hưởng đến quyền lợi đương sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Luật đất đai qua các thời kỳ và Luật đất đai năm 2013 không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác trong quá trình thực hiện chính sách trang trải về đất đai. Do đó phần đất 10.400 m2 không còn thuộc quyền sử dụng, quản lý của ông Ngô Văn H1 nữa.
Mặt khác, nguyên đơn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ông Bùi Văn S1 là cha của ông Bùi Văn T1. Trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất tranh chấp có diện tích 78,4m2 qua xem xét, thẩm định tại chỗ cũng thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng nguyên đơn. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
Quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Quang D có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ lại với lý do trên phần đất tranh chấp có mộ người thân bị đơn. Ngày 23/01/2024, Tòa án cấp phúc thẩm kết hợp với chính quyền địa phương xem xét thực tế, qua xem xét không có mộ người thân bị đơn như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã trình bày (Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/01/2024).
Từ những phân tích trên không có cơ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn không cung cấp chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, cũng như phản bác ý kiến của phía nguyên đơn. Hội đồng xét xử chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Hậu Giang, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn phải chịu án phí và chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 91, Điều 92, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 166, Điều 168, Điều 202, Điều 203 Luật đất đai năm 2013;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Thanh S.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 18 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn N và bà Lữ Thị H. Buộc bị đơn Ngô Thanh S, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngô Quang C, Ngô Quang D1, Ngô Hoàng N1, Ngô Thị Cẩm V, Ngô Quang D trả lại cho nguyên đơn Huỳnh Văn N, Lữ Thị Hồng phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế có diện tích 78,4m2 (nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn Lữ Thị H).
(Kèm lược đồ đo đạc) Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lữ Thị H, Huỳnh Văn N đối với bị đơn Ngô Văn H1 do nguyên đơn rút yêu cầu.
Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn Ngô Thanh S phải chịu 300.000 đồng. Nguyên đơn Lữ Thị H, Huỳnh Năm N được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0014301 ngày 26/6/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Án phí dân sự phúc thẩm ông Ngô Thanh S phải chịu 300.000 đồng chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông S đã nộp thành án phí phúc thẩm.
Về chi phí tố tụng cấp sơ thẩm là: 8.746.000 đồng, nguyên đơn Lữ Thị H, Huỳnh Văn N đã nộp xong. Buộc bị đơn Ngô Thanh S phải nộp 8.746.000 đồng trả lại cho nguyên đơn Lữ Thị H, Huỳnh Văn N Về chi phí tố tụng cấp phúc thẩm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Quang D phải chịu là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng), đã nộp xong.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 31/01/2024.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 19/2024/DS-PT
Số hiệu: | 19/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về