Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 190/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐH, TỈNH LA

BẢN ÁN 190/2022/DS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐH xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 382/2021/TLST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2021, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 323/2022/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1967; nơi đăng ký HKTT: ấp TH, xã BHB, huyện ĐH, tỉnh LA. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Bình T, sinh năm 1971; địa chỉ: ấp BB, xã HKT, huyện ĐH, tỉnh LA. (có mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Phạm Thị Gái B, sinh năm 1974; (xin vắng mặt)

3.2. Bà Trần Thị Lệ T, sinh năm 1975; (xin vắng mặt)

3.3. Ông Nguyễn Thanh V, sinh năm 1976; (xin vắng mặt)

3.4. Bà Phan Thị X, sinh năm 1975; (xin vắng mặt)

3.5. Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1937; (xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp BB, xã HKT, huyện ĐH, tỉnh LA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2021, 15/11/2021, những lời khai tiếp theo và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị R trình bày như sau: Nguồn gốc thửa đất 120, 136 là của ông nội bà R để lại cho bà R vào năm 1986. Đến năm 1996, bà R được UBND huyện ĐH cấp quyền sử dụng đất. Khi UBND huyện cấp quyền sử dụng đất thửa 120, 136 cho bà R không có đo đạc thực tế. Ranh hai bên là bờ ranh thẳng ngang 1,5 mét, dài hết hai thửa đất. Ranh giữa hai bên là chính giữa bờ.

Năm 2010, ông T trồng cây tràm vàng và bạch đàn lấn qua giữa bờ ranh khoảng 7 tấc. Bà R có vô nhà ông T nói chuyện. Năm 2014, ông T tiếp tục trồng cây tràm vàng và bạch đàn trên đường ranh đã lấn chiếm vào năm 2010 nên bà R thưa ra ấp. Ban hòa giải ấp có hòa giải nhưng không thành. Sau đó, ông T phá bờ ranh cũ, làm bờ ranh mới lấn chiếm đất của bà R khoảng 150 m2 (ngang 7,5 tấc, dài hết hai thửa đất). Khi ông T lấn đất, bà R có báo Trưởng ấp. Công an viên có đến vị trí đất nhưng không có lập biên bản nên bà R thưa ra xã. UBND xã Hòa Khánh Tây có hòa giải ngày 05/11/2021 nhưng không thành nên bà R khởi kiện lên Tòa án.

Nay, bà R yêu cầu ông Nguyễn Bình T và vợ là bà Phạm Thị Bé Ba trả lại phần đất lấn chiếm tại khu A có diện tích 45,3 m2 và khu B có diện tích 57,2 m2 thuộc một phần thửa 120, 136, cùng tờ bản đồ 37.

Bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 120, 136 hiện bà R đang giữ ở nhà, không cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng cho cá nhân, tổ chức k. Hiện tại, bà R cho ông Nguyễn Văn Lộc thuê đất. Bà R không tranh chấp hợp đồng thuê ruộng với ông L. Trên đất tranh chấp có một số cây trồng, bà R không tranh chấp.

Bị đơn ông Nguyễn Bình T trình bày: Nguồn gốc thửa đất 118, 119, 27 của ông nội ông T để lại cho ba ông T là Nguyễn Văn X thửa 118, 27. Ông nội cho chú ông T thửa 119, sau đó ông T mua lại thửa 119. Ông T đứng tên thửa 118, 119, còn thửa 27 do ba ông T đứng tên. Phần thửa 27 do ông T quản lý vì ba ông T cho ông T nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền. Khi UBND huyện cấp quyền sử dụng đất thửa 118, 119 cho ông T và thửa 27 cho ông Nguyễn Văn X là cha của ông T không có đo đạc thực tế, không lập biên bản ký giáp ranh. Ranh hai bên là bờ ranh thẳng ngang 1 mét, dài hết ba thửa đất. Ranh giữa hai bên là chính giữa bờ.

Bà R cho rằng năm 2010, ông trồng cây tràm vàng và bạch đàn lấn qua giữa bờ ranh khoảng 7 tấc. Bà R có vô nhà ông nói chuyện. Đến năm 2014, ông tiếp tục trồng cây tràm vàng và bạch đàn trên đường ranh đã lấn chiếm vào năm 2010 nên bà R thưa ra ấp. Ban hòa giải ấp có hòa giải nhưng không thành. Sau đó, ông phá bờ ranh cũ, làm bờ ranh mới lấn chiếm đất của bà R khoảng 150 m2 (ngang 7,5 tấc, dài hết hai thửa đất). Bà R trình bày không đúng, ông T không có lấn đất của bà R.

Bờ ranh ngày xưa ngang 1 mét, do sạc lỡ nên không còn, ông T có đắp bờ mới khoảng 2 mét. Khi đắp bờ ông T không có lấn đất của bà R, ông T đắp trên bờ ranh cũ. Khi ông T đắp bờ mới không có bà R chứng kiến. Việc tranh chấp giữa hai bên, Ban hòa giải ấp có hòa giải năm 2019. UBND xã Hòa Khánh Tây có hòa giải ngày 05/11/2021 nhưng không thành.

Tại phiên tòa, Ông T đồng ý trả đất cho bà R. Bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T, ông X hiện đang ở nhà, không có cầm cố, thế chấp cho cá nhân, tổ chức. Ông T và bà Ba đang quản lý canh tác thửa 118, 119, 27.

Trên đất tranh chấp có một số cây trồng, ông T tranh chấp.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Gái B nêu: Bà Ba là vợ ông T, hôn nhân giữa bà Ba và ông T vẫn đang tồn tại. Bà Ba không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà R. Bà Ba thống nhất với ý kiến của ông T; do bận công việc nên bà Ba xin vắng mặt sơ thẩm và phúc thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn X nêu: Ông X là cha của ông T. Ông X không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà R. Ông X thống nhất với ý kiến của ông T; do bận công việc nên ông X xin vắng mặt sơ thẩm và phúc thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị X trình bày như sau: Bà Xlà chủ sử dụng thửa 26, tờ bản đồ số 36, tọa lạc tại xã Hòa Khánh Tây, huyện ĐH, tỉnh LA. Bà Xthống nhất với hiện trạng sử dụng đất giữa bà với ông T và không có ý kiến gì. Bà Xxin vắng mặt tại Tòa án các cấp.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thanh V và Trần Thị Lệ T trình bày như sau: Bà Thu và ông V là vợ chồng. Ông V, bà Thu là chủ sử dụng thửa 101, 102, 103, tờ bản đồ số 37, tọa lạc tại xã HKT, huyện ĐH, tỉnh LA. Bà Thu, ông V thống nhất với hiện trạng sử dụng đất giữa ông bà với ông T và không có ý kiến gì. Bà Thu, ông V xin vắng mặt tại Tòa án các cấp.

Tại Công văn số 8766/UBND-NC ngày 10/8/2022 của UBND huyện ĐH có nội dung như sau: Thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn X, ông Nguyễn Bình T, bà Nguyễn Thị R không có đo đạc thực tế. Các thửa đất 120, 136, 118, 119, 218, 27, do ông Nguyễn Văn X, ông Nguyễn Bình T, bà Nguyễn Thị R đứng tên không có đăng ký giao dịch bảo đảm.

Tại phiên t a, i m sát viên Đại diện Viện ki m sát nhân dân c ng c p phát bi u quan đi m như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; các đương sự có mặt đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Về nội dung: Tại phiên tòa, ông T đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà R.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1].Về tố tụng:

 [1.2]. Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Qua yêu cầu khởi kiện của bà R, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ĐH, tỉnh LA theo thủ tục sơ thẩm, được quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.

[1.2]. Bà Phan Thị X, ông Nguyễn Thanh V và bà Trần Thị Lệ T, bà Phạm Thị Gái B, ông Nguyễn Văn X có đề nghị xin vắng mặt. Căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.

[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, đã tiến hành Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Bà R có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên quyết định đưa vụ án ra xét xử.

[1.4]. Bà R không tranh chấp hợp đồng thuê ruộng với ông Nguyễn Văn Lộc nên không đưa ông L tham gia tố tụng là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại biên bản về kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 12/9/2022 và tại phiên tòa nguyên đơn bà R yêu cầu ông Nguyễn Bình T và vợ là bà Phạm Thị Bé Ba trả lại phần đất lấn chiếm tại khu A có diện tích 45,3 m2 và khu B có diện tích 57,2 m2 thuộc một phần thửa 120, 136, cùng tờ bản đồ 37; không tranh chấp hợp đồng thuê ruộng với ông L. Trên đất tranh chấp có một số cây trồng, bà R không tranh chấp. Bị đơn ông T không có yêu cầu phản tố. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Căn cứ khoản 1 Điều 5, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chỉ xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[2.2]. Tại phiên tòa, các đương sự có mặt không xuất trình, giao nộp thêm chứng cứ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và do Tòa án thu thập, để xét xử vụ án.

[2.3]. Về yêu cầu khởi kiện của bà R: Các đương sự thống nhất với Mảnh trích đo địa chính số 144-2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa, được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện ĐH duyệt ngày 26/5/2022 và thống nhất với chứng thư thẩm định giá của Công ty TNHH Giám định và Thẩm định giá Thương Tín số 192/22/BĐS-DV ngày 09/9/2022, không yêu cầu định giá lại.

Tại Công văn số 8766/UBND-NC ngày 10/8/2022 của UBND huyện ĐH có nội dung như sau: Thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn X, ông Nguyễn Bình T, bà Nguyễn Thị R không có đo đạc thực tế. Ông T và bà R đều thừa nhận khi nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông X, ông T, bà R đều không có đo đạc thực tế nên không thể căn cứ vào diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hai bên để giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, bà R yêu cầu ông Nguyễn Bình T và bà Phạm Thị Bé Ba trả lại phần đất lấn chiếm tại khu A có diện tích 45,3 m2 và khu B có diện tích 57,2 m2 thuộc một phần thửa 120, 136, cùng tờ bản đồ 37. Ông T đồng ý trả lại cho bà R khu A có diện tích 45,3 m2 và khu B có diện tích 57,2 m2 nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Ông T đứng tên thửa 118, 119, còn thửa 27 do ba ông T là ông X đứng tên. Thửa 27 do ông T quản lý vì ông X cho ông T nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền. Phần đất tranh chấp hiện do vợ chồng ông T, bà Ba quản lý sử dụng nên buộc ông T, bà Ba trả lại đất cho bà R.

[2.4]. Bà R không tranh chấp hợp đồng thuê ruộng với ông L; không tranh chấp cây trồng trên đất nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: Tổng chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ là 36.500.000 đồng, bà R đã nộp tạm ứng, đã chi phí xong; buộc ông T, bà Ba liên đới trả cho bà R 36.500.000 đồng.

[5]. Về án phí: Buộc ông T, bà Ba liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước; hoàn lại cho bà R 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0009206 ngày 06/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐH, theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 24 Điều 3, Điều 100, Điều 166, Điều 203 Luật đất đai 2013; Điều 175, Điều 176 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị R đối với bị đơn ông Nguyễn Bình T về việc tranh chấp “Quyền sử dụng đất”.

Buộc ông Nguyễn Bình T và bà Phạm Thị Gái B trả lại cho bà Nguyễn Thị R phần đất tại khu A có diện tích 45,3 m2 và khu B có diện tích 57,2 m2 thuộc một phần thửa 120, 136, cùng tờ bản đồ 37, theo Mãnh trích đo địa chính số 144-2022 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa, được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện ĐH duyệt ngày 26/5/2022.

Các đương sự được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để điều chỉnh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

2. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc ông T, bà B liên đới nộp số tiền 36.500.000 đồng, để hoàn trả cho bà R.

Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

3. Về án phí: Buộc ông T, bà Ba liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước; hoàn lại cho bà R 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0009206 ngày 06/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐH.

4. Án xử sơ thẩm công khai, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 190/2022/DS-ST

Số hiệu:190/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về