TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 18/2024/DS-PT NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 129/2023/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2023, về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 57/2023/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 198/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 12 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 06/2024/QĐ-PT ngày 17 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1959.
Địa chỉ: Ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Đại diện theo ủy quyền:
1/ Ông Trần Văn T, sinh năm 1983 (Văn bản ủy quyền ngày 03/11/2023). Có mặt.
Địa chỉ: A, khu V, phường A, quận N, TP Cần Thơ.
2/ Ông Hà Văn C, sinh năm 1956 (Văn bản ủy quyền ngày 08/11/2023). Có mặt.
Địa chỉ: 1 đường T, phường A, quận T, TP Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Bà Mai Thị B, sinh năm 1965.
Địa chỉ: Ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Huỳnh Phước C1, sinh năm 1986 (Văn bản ủy quyền ngày 11/12/2021). Có mặt Địa chỉ: Số B, K văn hóa T, quốc lộ A, phường H, quận C, TP Cần Thơ.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Đoàn Văn H. Vắng mặt.
2. Bà Huỳnh Thị S. Vắng mặt.
3. Bà Cao Thị Ngọc B1. Vắng mặt.
4. Bà Đoàn Thị Diệu E. Vắng mặt 5. Bà Huỳnh Thị H1. Vắng mặt.
6. Ông Nguyễn Văn N1. Có mặt.
7. Ông Nguyễn Văn H2. Có mặt 8. Bà Nguyễn Thị Mộng T1. Có mặt.
9. Bà Nguyễn Thị Mộng L. Có mặt.
10. Bà Nguyễn Thị Mộng E1. Vắng mặt 11. Ông Phan Văn T2. Vắng mặt 12. Ông Nguyễn Hoàng V. Vắng mặt.
13. Bà Phan Thị Cẩm T3. Vắng mặt.
14. Bà Phan Thị Cẩm N2. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
15. Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
Địa chỉ: Số D, đường V, phường E, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
16. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt Địa chỉ: Ấp T, thị trấn N, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hoàng A - Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành T4 - Chức vụ: Trưởng Phòng Tài nguyên môi trường huyện C, tỉnh Hậu Giang.
* Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị N - Nguyên đơn; bà Mai Thị B - Bị đơn; ông Phan Văn T2, bà Phan Thị Cẩm N2, bà Phan Thị Cẩm T3 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Bà Huỳnh Thị N trình bày: Năm 2007, vợ chồng bà có chuyển nhượng cho ông Mai Văn T5 (cha của bị đơn) phần đất có diện tích 675m2, sau đó ông T5 để cho bà B sử dụng. Còn phần đất còn lại khoảng 625m2 không nằm trong phần đất của nguyên đơn đã chuyển nhượng cho bị đơn. Phần đất hiện đã được giải tỏa bồi hoàn. Nên nguyên đơn yêu cầu bà Ba p giao trả lại phần đất có diện tích khoảng 625m2.
Tại các lời khai của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Mai Văn T5 (cha của bị đơn) mua lại của ông Mai Văn B2. Sau khi ông T5 chết thì để lại đất cho bà B sử dụng. Khi nhà nước có chủ trương bồi thường đất thì phần đất của bà B được cấp giấy đo dư ra khoảng 750m2. Nguyên đơn cho rằng phần đất dư ra này của nguyên đơn là không đúng. Bị đơn không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn. Phần đất hiện bị đơn chưa nhận tiền bồi hoàn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Bà Huỳnh Thị S trình bày: Khoảng 13 năm trước bà có cất nhờ căn nhà trên đất của bà N, khi cất nhà không ai ngăn cản gì. Hiện căn nhà đã vô quy hoạch. Phần tài sản trên đất bà và chồng bà ông Đoàn Văn H đã được bồi hoàn xong. Bà không yêu cầu gì. Đất là của bà N cho bà mượn.
Bà Đoàn Thị Diệu E trình bày: Năm 2006 bà có cất nhờ căn nhà trên đất của bà N, khi cất nhà không ai ngăn cản gì. Hiện căn nhà đã vô quy hoạch. Phần tài sản trên đất bà đã được bồi hoàn xong, bà không yêu cầu gì.
Bà Cao Thị Ngọc B1 trình bày: Bà là con của bà Đoàn Thị Diệu E, gia đình bà cất nhà ở đậu trên đất của bà N năm 2006. Phần tài sản trên đất bà đã được bồi hoàn xong, bà không yêu cầu gì.
Ông Nguyễn Hoàng V trình bày: Năm 2017 ông T2, bà B là cha mẹ ông cho ông một phần phần đất tranh chấp để xây chuồng trại nuôi lươn, xây nhà tiền chế, nhà để ghe xuồng. Ông không đồng ý theo yêu cầu của bà N, thống nhất ý kiến bị đơn.
Bà Phan Thị Cầm T6 trình bày: Năm 2018 ông T2, bà B là cha mẹ bà cho bà một phần phần đất tranh chấp để xây nhà tiền chế. Bà không đồng ý theo yêu cầu của bà N, thống nhất ý kiến bị đơn.
Ông Phan Văn T2, bà Phan Thị Cẩm N2 trình bày: Không đồng ý theo yêu cầu của bà N, thống nhất ý kiến bị đơn.
Theo Công văn số 301/TTPTQĐ-BT&GPMB ngày 24/02/2023, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Hậu Giang trình bày: Tại thời điểm thu hồi đất để thực hiện dự án Nhà máy N4 (thuộc Trung tâm Đ) đã thu hồi phần đất tranh chấp với diện tích 703,5m2 là phần đất dư thuộc thửa đất số 45 tại Quyết định số 5284/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc thu hồi đất cho hộ bà Mai Thị B (theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất của Công ty Cổ phần T8 ngày 02/7/2021). Diện tích đất nêu trên được phê duyệt bồi thường tại Quyết định số 5290/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C với kinh phí là 407.550.500 đồng, đồng thời trên phần đất tranh chấp này có phần tài sản bị ảnh hưởng gồm cây trồng cũng đã được phê duyệt tại Quyết định số 5290/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C với kinh phí 17.510.000 đồng. Đến nay chủ hộ vẫn chưa nhận tiền bồi thường đối với phần đất tranh chấp và phần cây trồng trên đất tranh chấp nêu trên.
Tại Công văn số 1115/UNBD ngày 19/5/2023 của Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Hậu Giang cho rằng phần đất 703,5m2 theo Công văn số 301/TTPTQĐ-BT&GPMB ngày 24/02/2023 của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Hậu Giang là phần đất tranh chấp được phê duyệt bồi thường tại Quyết định số 5290/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C với kinh phí là 407.550.500 đồng. Đối với số tiền này đề nghị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử theo quy định.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 57/2023/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang đã tuyên xử như sau:
1. Xác định phần đất có diện tích 703,5m2 đã được phê duyệt bồi thường số tiền 407.550.500 đồng theo quyết định số 5290/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C thuộc quyền sở hữu của bà Huỳnh Thị N và bà Mai Thị B. Trong đó bà Huỳnh Thị N và bà Mai Thị B mỗi người được nhận 203.775.000 đồng (hai trăm lẻ ba triệu bảy trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).
2. Xác định cây trồng đã được phê duyệt bồi thường theo quyết định số 5290/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C với kinh phí 17.510.000 đồng (Mười bảy triệu năm trăm mười ngàn đồng) thuộc quyền sở hữu của bà Mai Thị B.
3. Các đương sự được nhận số tiền tại Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Hậu Giang. Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Hậu Giang có trách nhiệm chi trả cho bà Huỳnh Thị N và bà Mai Thị B số tiền theo quyết định của Bản án đã tuyên.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Ngày 10/8/2023, bà Huỳnh Thị N nộp đơn kháng cáo yêu cầu phúc thẩm xem xét bản án dân sự sơ thẩm số 57/2023/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, theo hướng sửa bản án dân sự sơ thẩm, công nhận phần đất tranh chấp cho nguyên đơn.
Ngày 13/01/2024, bà Huỳnh Thị N nộp đơn bổ sung nội dung kháng cáo yêu cầu phúc thẩm xem xét bản án dân sự sơ thẩm số 57/2023/DS - ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, theo hướng sửa bản án dân sự sơ thẩm, công nhận phần đất tranh chấp và giá trị bồi thường cho nguyên đơn.
Ngày 11/8/2023, bà Mai Thị B, ông Phan Văn T2, bà Phan Thị Cẩm T3, bà Phan Thị Cẩm N2 cùng nộp đơn kháng cáo yêu cầu phúc thẩm xem xét bản án dân sự sơ thẩm số 57/2023/DS - ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, theo hướng sửa bản án dân sự sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận phần diện tích đất tranh chấp đã được phê duyệt bồi thường cho bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự trình bày:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - ông Trần Văn T trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận phần đất tranh chấp và giá trị bồi thường cho nguyên đơn.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn - ông Huỳnh Phước C1 trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận phần diện tích đất tranh chấp đã được phê duyệt bồi thường cho bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm: Về tố tụng, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Huỳnh Thị N, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Mai Thị B, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Văn T2, Phan Thị Cẩm N2, Phan Thị Cẩm T3, sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiềm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn Huỳnh Thị N, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1.1] Về yêu cầu công nhận phần đất tranh chấp có diện tích 703,5m2:
Nguyên đơn cho rằng năm 2007, nguyên đơn chỉ chuyển nhượng cho ông Mai Văn T5 (cha của bị đơn) phần đất có diện tích 675m2, phần đất còn lại khoảng 625m2 không nằm trong phần đất mà nguyên đơn đã chuyển nhượng cho bị đơn. Sau khi chuyển nhượng, ông T5 đã để cho bị đơn sử dụng. Nay, phần đất có diện tích khoảng 625m2 được giải tỏa bồi hoàn nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải giao trả lại phần đất nêu trên.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 001079 do U cấp ngày 16/11/1991 cho ông Nguyễn Văn L1 đứng tên; ngoài ra không có giấy tờ nào khác thể hiện việc nguyên đơn đã chuyển nhượng cho ông Mai Văn T5. Xét, tài liệu mà nguyên đơn đã cung cấp cho thấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn được cấp trước bị đơn, trong đó, thửa đất của nguyên đơn đang quản lý có tiếp giáp ranh với phần đất tranh chấp; đồng thời, cũng thể hiện thửa đất số 44, 45, 46 giáp với sông H, không có thể hiện khoảng đất trống nào khác. Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà nguyên đơn cung cấp chỉ thể hiện nguyên đơn đang quản lý phần đất giáp ranh với phần đất tranh chấp, không chứng minh được phần đất tranh chấp là của nguyên đơn.
Nguyên đơn cho rằng năm 2007 chuyển nhượng cho ông Mai Văn T5 phần đất có diện tích 675m2 nhưng phía bị đơn đã cung cấp được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000373 do u cấp ngày 09/9/1997 cho hộ bà Mai Thị L2 đứng tên; “Tờ giao xẻo” giữa ông Mai Văn T5 và ông Mai Văn B2. Tức là, phía bị đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước thời điểm mà nguyên đơn cho rằng đã chuyển nhượng cho bị đơn; bị đơn cũng chứng minh được cho lời trình bày của bị đơn về nguồn gốc đất thông qua “Tờ giao xẻo”. Tại Công văn số 1115/UBND ngày 19/5/2023 của Ủy ban nhân dân huyện C cũng xác định phần đất tranh chấp của các đương sự có diện tích ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa 45 (thửa đất đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Mai Thị B).
Bên cạnh đó, diện tích đất tranh chấp 703,5m2 đã có Quyết định số 5284/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc thu hồi đất cho hộ bà Mai Thị B (theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất của Công ty Cổ phần T8 ngày 02/7/2021), hiện tại đối tượng là quyền sử dụng đất diện tích 703,5m2 đã bị thu hồi.
Từ những phân tích trên, không có cơ sở để xem xét yêu cầu công nhận phần đất tranh chấp có diện tích 703,5m2 cho phía nguyên đơn.
[1.2] Về yêu cầu công nhận giá trị bồi thường cho diện tích đất tranh chấp và phần tài sản là cây trồng trên đất tranh chấp: Tại phiên tòa đại diện ủy quyền của nguyên đơn rút lại kháng cáo về tài sản là cây trồng trên đất là thuộc quyền sở hữu của bà Mai Thị B, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Từ những phân tích ở mục 1.1 cho thấy, do không có cơ sở để xem xét yêu cầu công nhận phần đất tranh chấp có diện tích 703,5m2 cho phía nguyên đơn nên yêu cầu công nhận toàn bộ giá trị bồi thường đất cũng có không có căn cứ để xem xét.
[2] Do bị đơn Mai Thị B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Văn T2, bà Phan Thị Cẩm T3, bà Phan Thị Cẩm N2 có cùng nội dung kháng cáo nên xét nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Do diện tích đất tranh chấp 703,5m2 đã có Quyết định số 5284/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc thu hồi đất cho hộ bà Mai Thị B (theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất của Công ty cổ phần T8 ngày 02/7/2021), nên không có căn cứ để yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất này cho bất kỳ chủ thể nào. Vì vậy, không có cơ sở để xem xét yêu cầu công nhận phần đất tranh chấp có diện tích 703,5m2 cho phía bị đơn, đối với giá trị bồi thường đối với phần đất tranh chấp cho phía bị đơn.
[3] Từ những phân tích trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chia đôi số tiền bồi thường cho cả nguyên đơn và bị đơn là chưa phù hợp.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không cung cấp chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, cũng như phản bác ý kiến của phía bị đơn; phía bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tuy không có cung cấp chứng cứ gì mới nhưng qua xem xét toàn bộ hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Hậu Giang, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Huỳnh Thị N, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn Mai Thị B, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Văn T2, Phan Thị Cẩm N2, Phan Thị Cẩm T3, sửa bản án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 91, Điều 147, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 163, 164 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 166, 203 Luật đất đai năm 2013;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Huỳnh Thị N.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn Mai Thị B.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Văn T2, Phan Thị Cẩm N2, Phan Thị Cẩm T3.
Sửa bản án sơ thẩm.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả lại phần đất có diện tích 703,5m2 và số tiền bồi hoàn đối với phần đất đã được phê duyệt bồi thường là 407.550.500 đồng theo quyết định số 5290/QĐ-UBND ngày 09/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C.
2. Về chi phí thẩm định, đo vẽ sơ đồ thửa đất là 3.700.000đồng. Phía nguyên đơn bà Huỳnh Thị N phải chịu, bà N đã nộp xong.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn Huỳnh Thị N phải chịu 300.000 đồng. Chuyển số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0010224 ngày 23 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang thành án phí.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn Huỳnh Thị N phải chịu 300.000 đồng. Chuyển số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0011344 ngày 10 tháng 8 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang thành án phí.
Bị đơn Mai Thị B được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0011261 ngày 11 tháng 8 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Văn T2 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0011260 ngày 11 tháng 8 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Thị Cẩm T3 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0011259 ngày 11 tháng 8 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Thị Cẩm N2 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0011258 ngày 11 tháng 8 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 31/01/2024.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 18/2024/DS-PT
Số hiệu: | 18/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về