Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 181/2021/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 181/2021/DS-PT NGÀY 31/12/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 186/2021/TLPT- DS ngày 28 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 130/2021/DS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 183/2021/QĐPT-DS ngày 07 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1956 (Có mặt). Cư trú tại: Ấp C, xã P, huyện P, tỉnh C ..

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Phạm Hữu Quốc, thuộc Công ty Luật TNHH MTV Sài Gòn – Bến Thành (Vắng mặt).

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1947 (Có mặt). Cư trú tại: Ấp T, xã P, huyện P, tỉnh C ..

2. Bà L Thị C, sinh năm 1988 (Có mặt).

3. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1983 (Có mặt).

Cùng cư trú tại: Ấp T, xã P, huyện P, tỉnh C ..

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Tô Ngọc A, sinh năm 1957 (vợ ông H1) (Vắng mặt). Cư trú tại: Ấp C, xã P, huyện P, tỉnh C ..

2. Bà Tô Ngọc Ph, sinh năm 1950 (vợ ông D) (Có mặt). Cư trú tại: Ấp T, xã P, huyện P, tỉnh C ..

3. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1954 (Vắng mặt).

4. Bà Lê Thị H2, sinh năm 1960 (vợ ông L) (có mặt). Cùng cư trú tại: Ấp T, xã P, huyện P, tỉnh C ..

- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn H1, là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 4 năm 2018, đơn khởi kiện bổ sung ngày 04 tháng 8 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn H1 trình bày:

Gia đình ông có một phần đất có diện tích 13.250m2 tọa lạc tại ấp Tân Thành, xã Phú Tân, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau do ông đứng tên và quản lý canh tác từ sau năm 1975, đã đăng ký mục kê từ năm 1993, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1982 do anh ruột ông là ông Nguyễn Văn L có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông cho ông L mượn một phần đất diện tích 3.500m2 (là phần đất đang tranh chấp) đến năm 1994 ông L trả lại đất cho ông.

Năm 2001 ông Nguyễn Văn D ngang nhiên lấn chiếm toàn bộ phần đất để cất nhà trên phần đất và cho con là ông Nguyễn Văn K canh tác cho đến nay. Khi ông khai phá phần đất này thì đất này bỏ hoang không có người quản lý, canh tác, khi khai phá ông phát hiện trên phần đất có một nền mộ và một ngôi mộ, sau này ông mới biết là mộ của người thân ông D. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn K và bà L Thị C trả cho ông phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 5.008,9m2. Đối với nền mộ và những ngôi mộ của thân nhân ông D ông đồng ý để cho ông D quản lý nhưng ông D không được sang bán, khi nào ông D di dời hết những ngôi mộ thì trả đất lại cho ông.

- Tại biên bản hòa giải ngày 17 tháng 5 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Nguyễn Văn D trình bày:

Nguồn gốc phần đất là do ông nội và cha ông khai phá trong thời kỳ chiến tranh, ông không biết cụ thể khai phá năm nào. Trên phần đất này có các ngôi mộ của thân nhân ông gồm: mộ của ông, bà nội, cô hai, bác năm, chế hai của ông. Do chiến tranh nên gia đình ông không trực tiếp quản lý canh tác đất nên ông Nguyễn Văn L chiếm sử dụng. Đến năm 1998 ông Nguyễn Văn L kêu bán phần đất này nên ông ngăn cản và yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết thì vợ chồng ông L, bà H2 đồng ý trả đất cho ông, vợ chồng ông L, bà H2 yêu cầu trả thành quả lao động 1.200.000 đồng, ông đã trả thành quả lao động cho ông L, bà H2 xong. Sau khi trả thành quả lao động ông đã lấy đất lại và quản lý sử dụng từ năm 1998 đến nay. Sau khi ông quản lý canh tác đất ông có di dời mộ của cha ông về phần đất này và khi mẹ ông chết cũng chôn tại phần đất này nhưng ông H1 không có ý kiến và không ngăn cản. Phần đất này ông chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông H1 yêu cầu ông trả đất ông không đồng ý.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà L Thị C trình bày: Ông, bà thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn Văn D, phần đất đang tranh chấp là do ông Nguyễn Văn D cho vợ chồng ông K, bà C quản lý sử dụng nên ông H1 yêu cầu trả đất ông K, bà C không đồng ý.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tô Thị P trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của bà là ông Nguyễn Văn D, bà không trình bày bổ sung.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị H2 trình bày: Phần đất đang tranh chấp trước đây ông Nguyễn Văn H1 cho vợ chồng bà mượn canh tác từ năm 1982 đến năm 1998 thì ông D cho rằng phần đất này của ông D và ông D yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết vì trên phần đất này có một ngôi mộ của chế hai ông D. Chính quyền địa phương hòa giải yêu cầu vợ chồng bà trả lại đất vì cho rằng đất này có mồ mả thân nhân ông D. Khi ở trên phần đất này bà có trồng 15 cây dừa nên bà yêu cầu ông D trả thành quả lao động của 15 cây dừa với số tiền là 1.200.000 đồng, vợ chồng bà đã nhận tiền và giao đất cho ông D quản lý.

- Tại biên bản ghi lời khai ngày 18 tháng 02 năm 2020 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn L trình bày: Phần đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn H1 cho ông mượn quản lý canh tác từ năm 1975 đến năm 1998 ông D cho rằng là đất của ông D nên xảy ra tranh chấp và được chính quyền địa phương hòa giải. Ông D có trả thành quả lao động cho ông 1.200.000 đồng và ông đã giao đất cho ông D sử dụng, còn việc tranh chấp giữa ông H1 và ông D như thế nào không liên quan đến ông nên ông yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông thừa nhận chữ ký trong biên bản hòa giải ngày 22 tháng 5 năm 1998 và giấy trả đất ngày 04 tháng 6 năm 2001 là do ông ký.

Tại nội dung vụ án nêu trên, Bản án sơ thẩm quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn K và bà L Thị C trả lại diện tích đất đo đạc thực tế là: 5.008,9 m.2, tọa lạc tại ấp tân Thành, xã Phú Tân, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 27-5-2021, ông Nguyễn Văn H1 có đơn kháng cáo: Yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử sửa Bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu: Về tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định. Về nội dung: Nguyên đơn khởi kiện nhưng không có chứng cứ chứng minh đất của nguyên đơn; đất bị đơn sử dụng đã được giải quyết tranh chấp từ năm 1998, bị đơn cũng đã hoàn số tiền 1.200.000 đồng cho vợ chồng ông Nguyễn Văn L để bị đơn nhận đất và sử dụng liên tục đến nay; gia đình phía bị đơn có cất nhà kiên cố, canh tác nuôi tôm, trồng nhiều loại cây lâu năm, có bờ phân ranh giữa nguyên đơn và bị đơn từ năm 1998; trên đất bị đơn có một nền một trước năm 1975, đến nay nền mộ có 07 ngôi mộ của thân tộc bị đơn chôn cất. Quá trình sử dụng một thời gian dài, nguyên đơn không tranh chấp gì, cấp sơ thẩm bác yêu cầu đòi đất của nguyên đơn là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, tuyên xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn H1; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét kháng cáo của nguyên đơn. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về tố tụng: Tòa sơ thẩm đã thụ lý đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp. Ông Nguyễn Văn H1 cho rằng đã trao đổi ý kiến với Luật sư về sự vắng mặt của Luật sư, ý kiến ông H1 cho rằng do tình hình dịch bệnh, nên ông H1 thống nhất đề nghị xét xử vắng mặt Luật sư (mà không phải hoãn phiên tòa).

[2] Về nội dung: Ông H1 cho rằng ông H1 được Nhà nước giao đất cho ông vào năm 1975 (do ông khai phá quản lý sử dụng đến năm 1982), thì cho vợ chồng ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị H2 mượn canh tác một phần đất (hiện nay đang tranh chấp). Năm 1993 ông H1 được ghi tên vào sổ mục kê. Khi ông vào khai phá phần đất thì trên phần đất có 02 nền nhà, một nền mộ và có một ngôi mộ. Đến năm 2001 ông Nguyễn Văn D lấn chiếm đất của ông, nên ông yêu cầu ông D và gia đình trả cho ông phần đất diện tích theo đo đạc thực tế là 5.008,9m2.

Đối với ông D cho rằng phần đất đang tranh chấp do gia đình ông D khai phá trước năm 1975, do chiến tranh nên gia đình ông không có sinh sống trên phần đất này. Sau năm 1975 thì gia đình ông L (chứ không riêng gì ông H1) quản lý sử dụng phần đất này. Năm 1998 ông L kêu bán phần đất này cho người khác, nên ông D ngăn cản và được chính quyền địa phương giải quyết. Khi chính quyền địa phương giải quyết, gia đình ông L đồng ý trả đất cho ông D và ông D đã trả thành quả lao động cho gia đình ông L 1.200.000 đồng và canh tác đất đến nay, nên ông D không đồng ý trả đất cho ông H1.

[3] Xét căn cứ khởi kiện của nguyên đơn: Xét thấy, ông H1 cho rằng Nhà nước giao đất cho ông H1 từ năm 1975 và ông H1 đã khai phá, canh tác đến năm 1982, nhưng ông H1 không cung cấp giấy tờ về việc Nhà nước giao đất và không cung cấp được giấy tờ tài liệu chứng minh việc ông khai phá, quản lý sử dụng phần đất từ năm 1975 đến năm 1982. Trong khi đó, theo ông Nguyễn Văn L, ông Võ Văn Thiện, bà Trịnh Thị Đọt (là những người lớn tuổi ở địa phương) xác định ông L quản lý, canh tác phần đất từ năm 1975 cho đến khi tranh chấp với ông D. Như vậy, có cơ sở xác định từ năm 1975 đến nay ông H1 không có trực tiếp quản lý, canh tác trên phần đất đang tranh chấp. Nên việc ông H1 đặt ra nội dung năm 1982 cho ông L mượn đất là không có cơ sở vững chắc. Hơn nữa, vào năm 1998, ông L và ông D có tranh chấp với nhau về phần đất, chính quyền địa phương đã giải quyết tranh chấp giữa ông L và ông D, tại biên bản hòa giải ngày 22-5-1998 (Bút lục số: 74) thể hiện ông L đồng ý trả đất cho ông D và ông D trả thành quả lao động cho ông L với số tiền 1.200.000 đồng. Ông D đã trả tiền thành quả cho ông L xong nên ngày 04-6-2001 ông L đã làm giấy trả đất cho ông D (Bút lục số: 73).

[3.1] Về quá trình sử dụng đất: Sau khi được nhận đất năm 1998, ông D không đăng ký mục kê hay xin cấp Giấy CNQSDĐ, nhưng phía ông H1 và ông D có phân ranh giữa hai bên bằng ½ con bờ chung (theo bản vẽ ngày 27-9-2018 điểm M1, M4: dài 89,80m). Tại biên bản làm việc ngày 16-11-2021 (Bút lục số : 279), ông H1, ông D cũng đều xác định từ năm 1998 quá trình sử dụng thì các bên đều có đắp lên con bờ chung này. Điều đó, cho thấy từ năm 1998 phía ông H1 đã không có tranh chấp phần đất của học Du, mà cùng thống nhất sử dụng liền ranh. Việc đo đạc thực tế lớn hơn 03 công tầm lớn (1.296m2/công), theo các bên trình bày tại tòa, phía mặt tiền, do có hoạt động xáng múc từ sông bồi đắp lên, nên thực tế diện tích khuôn viên đất ông D nhận từ năm 1998 là 5.008,9m2.

Trong quá trình quản lý canh tác ông D cũng đã di dời mộ của người thân về phần đất và khi mẹ ông D chết cũng chôn trên phần đất này, nhưng ông H1 không ngăn cản, hiện nay trên phần đất có 07 ngôi mộ của người thân ông D. Ngoài ra, trên đất của ông D sử dụng còn có cất nhà từ năm 1998, trồng nhiều cây bạch đàng, cây xanh, mai vàng, chanh, xoài, ổi, dừa và đất cũng được cải tạo nuôi tôm… nhưng ông H1 không có tranh chấp, ngăn cản gì. Đến năm 2017 ông D yêu cầu cơ quan chuyên môn đo đạc đất để làm quyền sử dụng đất thì ông H1 mới ngăn cản.

[4] Do ông H1 yêu cầu khởi kiện nhưng không đưa ra được chứng cứ minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, nên án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H1 là có căn cứ. Vì vậy, ông H1 tiếp tục kháng cáo cho rằng phần đất tranh chấp là của ông, nên yêu cầu bị đơn trả lại, là không có cơ sở, nên không được chấp nhận. Từ đó, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của Đại diện Viển kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp.

[5] Về chi phí tố tụng: Án sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn, thì phải chịu chi phí tố tụng với số tiền cụ thể. Tuy nhiên, Bản án không tuyên xử chi phí tố tụng là có thiếu sót, thực hiện chưa đúng Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự. Song, xét thấy sai sót tố tụng này không nghiêm trọng, nên cấp phúc thẩm cần rút kinh nghiệm vấn đề này để cấp sơ thẩm tránh sai sót với lỗi tương tự.

[6] Về án phí sơ thẩm, phúc thẩm: Do ông Nguyễn Văn H1 là người cao tuổi và có đơn đề ghị miễn án phí nên được miễn theo quy định tại Điều 12, Điều 14 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn H1.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 130/2021/DS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn K và bà L Thị C trả lại diện tích đất đo đạc thực tế là: 5.008,9 m2, tọa lạc tại ấp tân Thành, xã Phú Tân, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (Kèm theo bản vẽ phát hành ngày 27-9-2018).

2. Về án phí sơ thẩm, phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí cho ông Nguyễn Văn H1 (do người cao tuổi có đơn xin miễn).

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 181/2021/DS-PT

Số hiệu:181/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về