Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 147/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 147/2023/DS-PT NGÀY 19/06/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 19 tháng 6 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm - trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần - trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Định, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án dân sự thụ lý số 266/2022/TLPT-DS ngày 06 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2022/DS-ST ngày 15 tháng 09 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2200/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị X, sinh năm 1945, có mặt.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Võ Thị X: Chị Đặng Thị Kim T, sinh năm 1972 (văn bản ủy quyền số 11 ngày 21/01/2021), có mặt.

Cùng trú tại: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định.

- Bị đơn: Ông Lê Đình Q, sinh năm 1939.

Bà Võ Thị S, sinh năm 1943.

Cùng trú tại: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định. Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lê Đình Q và bà Võ Thị S (Văn bản ủy quyền số 161 ngày 27 tháng 6 năm 2018) là:

1. Ông Lê Đình T1, sinh năm 1963; trú tại: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định, có mặt.

2. Bà Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1974; trú tại: Số I đường L, phường L, thành phố Q, tỉnh Bình Định, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Đặng Thị Kim T, sinh năm 1972, có mặt.

Trú tại: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định.

2. Chị Võ Thị Ngọc D, sinh năm 1978,có mặt.

Trú tại: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định.

3. Chị Nguyễn Hoàng T2, sinh năm 1989; trú tại: Số B S, K, TN C, USA.

Đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Hoàng T2 là bà Võ Thị X (văn bản ủy quyền ngày 28 tháng 12 năm 2017), bà X có mặt.

4. Anh Lê Đình L, sinh năm 1969; trú tại: Thôn Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định.

5. Anh Lê Đình H1, sinh năm 1983; trú tại: Căn hộ S – 15 – 08 Chung cư T, B M, phường A, quận B, TP .. Đại diện theo ủy quyền của anh Lê Đình L và anh Lê Đình H1: Ông Lê Đình T1 và bà Lê Thị Mỹ H, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Thị X và chị Đặng Thị Kim T là người đại diện theo ủy quyền của bà X đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất trình bày:

Hộ gia đình bà X được U, tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 1770m2 (trong đó đất thổ cư 300m2, đất vườn 310m2). Năm 2003 được tách thửa đất ở và đất vườn; ngày 29/12/2003 hộ gia đình bà X được U cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00253/QSDĐ/G86/QĐ-UBND (H) đối với thửa đất số 1506, tờ bản đồ số 02, diện tích 470m2 (300m2 đất ở, 170m2 đất vườn) tọa lạc tại xã V (nay là thị trấn V), H. V. Năm 2015 gia đình ông Lê Đình Q, xây lại nhà nhưng lấn chiếm đất của bà X có diện tích khoảng 20m2 (rộng 0,4m, dài 50m) nên đã xảy ra tranh chấp giữa bà với ông Q. Nay, bà X khởi kiện yêu cầu:

1. Ông Q, bà S phải trả lại diện tích khoảng 20m2 (rộng 0,4m, dài 50m) từ bức tường thứ hai của bà cho đến hết chiều dài của thửa đất.

2. Công nhận nguyên trạng hình thể sơ đồ thửa đất 1506, tờ bản đồ 02, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã UBND Huyện V, cấp ngày 29/12/2003 là một đường thẳng từ trước ra sau.

3. Xác định ranh giới liền kề về phía Bắc thửa đất số 1506, tờ bản đồ 02 giáp với thửa đất 1480 của ông Lê Đình Q (phía trước là mốc tường nhà bà; phía sau là tim cây dừa do ông Lê Đình T1 trồng vào năm 1977 làm ranh giới hai bên), căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã UBND Huyện V, cấp.

4. Buộc vợ chồng ông Lê Đình Q, phải trả lại nguyên trạng hình thể sơ đồ thửa đất 1506, tờ bản đồ 02 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã UBND Huyện V, cấp ngày 29/12/2003. Đồng thời, phải trả lại nguyên hiện trạng giới cận liền kề về phía Bắc (giáp liền với thửa đất 1480 của ông Lê Đình Q) là một đường thẳng từ trước ra sau như hiện trạng hình thể của thửa đất 1506, tờ bản đồ 02 có diện tích 470m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00253 đã được U cấp ngày 29/12/2003 và phần diện tích đất khoảng 20m2 lấn chiếm tại ranh giới liền kề vế phía Bắc.

Ông Lê Đình T1 và bà Lê Thị Mỹ H là đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lê Đình Q và bà Võ Thị S thống nhất trình bày:

Nguồn gốc diện tích 20m2 (rộng 0.4m x 50m) tọa lạc tại thôn Đ, thị trấn V, H. V mà bà X khởi kiện cho rằng ông Q bà S lấn chiếm là của ông Q bà S sử dụng ổn định từ năm 1966 đến nay. Ông Q bà S đã đăng ký kê khai thửa đất 1480, tờ bản đồ 02 được U, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00135 QSDĐ/686/QĐ-UB ngày 29/12/2003 có diện tích 460m2 (trong đó có 20m2 mà bà X tranh chấp). Ranh giới đất giữa hộ bà X với hộ gia đình ông Q bà S là hàng rào cây sống và kẽm gai. Khoảng năm 1980, bà X tự tháo dỡ hàng rào kẽm gai và cây sống rồi xây dựng nhà kiên cố trên nền móng cũ của ông Phan T4 và tiếp tục tháo dỡ hàng rào cây sống xây chuồng gà, chuồng heo và còn lại là tường rào thẳng ra cuối vườn nhà bà X bằng gạch cho đến nay. Ở phía cuối hàng rào ranh giới giữa gia đình với bà X vẫn còn một cây dừa do gia đình ông bà trồng trồng từ năm 1977. Hiện nay, trên đất của bà X vẫn còn một cây dừa (đã chết) gần cuối thửa đất của bà X do bà X trồng để làm hàng rào với gia đình.

Ông, bà không thống nhất nội dung đơn khởi kiện của bà Võ Thị X vì ông bà không lấn chiếm 20m2 của bà X. Hiện trạng vách tường và tường rào từ trước ra sau toàn bộ bà X xây dựng là ranh giới giữa hai nhà (hiện nay hiện trạng ranh giới vẫn còn). Diện tích bà X tranh chấp là gia đình tôi đã sử dụng từ trước năm 1975 đến nay của chủ cũ để lại, trên hiện trạng còn nhà vệ sinh và cây dừa ăn trái.

Nay bà X yêu cầu trả lại cho bà X diện tích đất lấn chiếm tại ranh giới liền kề về phía Bắc của thửa đất 1506, tờ bản đồ 02 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được U, cấp ngày 29/12/2003 số vào sổ 00253 thì ông bà không đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Võ Thị Ngọc D và đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Hoàng T2 là bà Võ Thị X, đồng trình bày:

Thống nhất theo đơn khởi kiện và ý kiến của bà X. Ông Lê Đình T1 và bà Lê Thị Mỹ H là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Đình L, anh Lê Đình H1 thống nhất trình bày:

Thống nhất như trình bày của bị đơn, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Với nội dung nêu trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2022/DS-ST ngày 15 tháng 09 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

Căn cứ vào Điều 158, khoản 1 Điều 166, khoản 2 Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015.

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị X. 2. Xác định diện tích 25,6m2 đất có giới cận: Đông giáp đường ĐT 637 dài 0,50m; Tây giáp nhà ông P; Bắc giáp thửa đất số 1480; Nam giáp thửa đất 1506 là thuộc quyền sử dụng của hộ bà Võ Thị X (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).

Giao cho ông Lê Đình Q và bà Võ Thị S được trọn quyền sử dụng 25,6m2 đất có giới cận: Đông giáp đường ĐT 637 dài 0,50m; Tây giáp nhà ông P; Bắc giáp thửa đất số 1480; Nam giáp thửa đất 1506 (có sơ đồ bản vẽ kèm theo). Ông Lê Đình Q và bà Võ Thị X phải liên đới thối lại giá trị quyền sử dụng 25,6m2 cho bà Võ Thị X là 38.400.000 đồng (ba mươi tám triệu bốn trăm nghìn đồng).

3. Về chi phí tố tụng và án phí:

3.1. Chi phí xem xét, thẩm định và định giá tổng cộng là: 32.300.000 đồng (ban mươi hai triệu ba trăm nghìn đồng). Ông Lê Đình Q và bà Võ Thị S phải chịu. Số tiền này bà Võ Thị X tạm ứng 18.500.000 đồng (mười tám triệu năm trăm nghìn đồng), ông Lê Đình Q bà Võ Thị S nộp tạm ứng 13.800.000 đồng (mười ba triệu tám trăm nghìn đồng) nên buộc ông Lê Đình Q và bà Võ Thị S phải liên đới trả lại cho bà Võ Thị X 18.500.000 đồng (mười tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, quy định về thi hành án và công bố quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/9/2022, Toả án nhân dân tỉnh B nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn Võ Thị X, kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm, buộc bị đơn trả lại diện tích khoảng 20m2, công nhận nguyên trạng hình thể sơ đồ thửa đất 1506 là một đường thẳng.

Ngày 28/9/2022, Toà án nhân dân tỉnh Bình Định nhận đơn kháng cáo của bị đơn Lê Đình Q và ngày 10/01/2023, ông Lê Đình Q có đơn kháng cáo bổ sung, kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm, xử bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.

Không có tài liệu chứng cứ mới kèm theo đơn kháng cáo (BL778-Thông báo kháng cáo số 54/TB-TA ngày 17/10/2022 của TAND tỉnh Bình Định).

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng khẳng định rằng, chưa có cơ sở xác định bị đơn Lê Đình Q lấn chiếm đất của nguyên đơn Võ Thị X; bà X mua lại các bức tường nhà của chị H2; phần đất tranh chấp nối bức tường của bà X, là ranh giới giữa hai bên được bà X xây dựng từ năm 1985. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn Lê Đình Q, sửa Bản án sơ thẩm, xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Võ Thị X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà và xem xét quan điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay nguyên đơn không rút đơn khởi kiện. Nguyên đơn có kháng cáo giữ nguyên nội dung yêu cầu kháng cáo, đề nghị Toà án buộc bị đơn trả lại diện tích đất lấn chiếm khoảng 20m2, trả lại nguyên trạng hình thể thửa đất 1506 là một đường thẳng. Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn Lê Đình Q giữ nguyên nội dung yêu cầu kháng cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm, sửa Bản án sơ thẩm, xử bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị X, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Thửa đất của hộ bà Võ Thị X và hộ ông Lê Đình Q liền kề nhau, toạ lạc tại thôn Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định. Nguồn gốc thửa đất của hộ bà X là do bà X mua nhà củ bị hư hỏng (chỉ có 3 vách tường) của vợ chồng bà Trần Thị H3 vào ngày 18/11/1975. Nguồn gốc nhà đất của hộ ông Lê Đình Q là do ông bà, cha mẹ để lại và ông Q đã ở từ năm 1966 cho đến nay. Thửa đất của hộ bà X được UBND huyện V cân đối giao quyền vào ngày 15/3/1995 có số thửa là 1008, tờ bản đồ số 2, diện tích 610m2 (300m2 đất ở, 310m2 đất vườn). Khi nhà nước nâng cấp tuyến đường ĐT 637 qua thị trấn V thì thửa đất trên được đổi thành thửa số 1506, tờ bản đồ số 2, diện tích 470 (300m2 đất ở, 170m2 đất vườn). Hộ ông Q được UBND huyện V cân đối giao quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với nhiều thửa đất trong đó có thửa đất số 1009, tờ bản đồ số 2, diện tích 480m2. Khi nhà nước mở rộng nâng cấp tuyến đường DT637, hộ ông Q được đổi thành thửa 1480, tờ bản đồ số 2. Hộ ông Q được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 29/12/2003, số thửa 1480, tờ bản đồ số 02, diện tích 460m2 , trong đó300m2 đất ở, 160m2 đất vườn. Phần diện tích đất tranh chấp mà nguyên đơn khởi kiện trước đây là rãnh nước với diện tích khoảng 20m2 (rộng 0,4m x dài 50m) chạy dọc theo tường nhà do bà X xây dựng vào năm 1985.

[2] Căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/11/2021 (BL-645), kèm theo sơ đồ trích đo địa chính, do Công ty TNHH B thực hiện (BL-639), thửa đất số 1506, tờ bản đồ số 2 của bà X có diện tích đất thực tế là 474,4m2, trong khi diện tích mà hộ bà X được UBND huyện V cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2003 là 470m2. Thửa đất số 1480, tờ bản đồ số 2, ông Q, bà S sử dụng có diện tích đất thực tế là 421,3m2, trong khi hộ ông Q được UBND huyện V cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2003 là 460m2. Như vậy so sánh diện tích đất thực tế sử dụng tại thời điểm xem xét thẩm định tại chỗ và diện tích đất được ghi trong GCNQSDĐ thì diện tích của hộ bà X tăng 4,4m2; diện tích đất của hộ ông Q sử dụng (421,3m2) và tính cộng luôn cả phần diện tích đang tranh chấp (25,6m2) thì diện tích đất hộ ông Q vẫn nhỏ hơn diện tích được ghi trong GCNQSDĐ mà UBND huyện V đã cấp cho hộ ông Q. [3] Chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện, qua nhiều lần đo đạc hiện trạng sử dụng đất của hai hộ trong các lần đo đều dựa vào bức tường nhà và tường rào do bà X xây dựng từ năm 1985 để đo đạc. Căn cứ vào lời trình bày của các bên đương sự đều xác định trước đây ranh giới giữa hai thửa đất là hàng rào kẽm gai nhưng trong quá trình sử dụng hai bên tự tháo dỡ. Năm 1985, bà X xây tường nhà sau thụt vào 0,4m do hộ ông Q không cho xây thẳng theo vách tường nhà của bà X mua năm 1975 và năm 2006 bà X Xây tường rào nối với tường nhà đã xây dựng từ năm 1985, kéo dài thẳng ra sau hết đất. Lời khai của các người làm chứng thể hiện: Tại bút lục 674, ông Nguyễn Văn T5 sinh 1971, khai tường rào cố định kéo dài hết thửa đất; tại bút lục 673, ông Trần Văn L1 sinh 1945 khai: cô Võ Thị X xây tường nhà và tường rào từ trước ra sau hiện trạng còn nguyên; tại bút lục 672, ông Nguyễn Trọng H4, sinh 1943, khai bà Võ Thi X1 đã rào bằng tường gạch ngăn cách giữa nhà ông Lê Đình Q và nhà Võ Thị X, như vậy, tôi thấy không có đất trống đâu mà ông Lê Đình Q lấn chiếm.

[4] Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn không xác định được chính xác diện tích đất bị bị đơn lấn chiếm là bao nhiêu m2 mà chỉ yêu cầu bị đơn trả lại “Khoảng 20m2” Như vậy, sau khi ranh giới tạm của hai bên bị tháo dỡ thì bà X xây tường để xác định ranh giới bằng bức tường gạch. Qua xem xét, thẩm định hiện nay bức tường gạch này vần còn nguyên hiện trạng. Mặt khác, sát bên bức tường phía sau đất của nhà bà X vần còn cây dừa của gia đình ông Q trồng năm 1977 thể hiện ranh giới quyền sử dụng đất của hai bên đã rõ. Và theo sơ đồ GCNQSDĐ của hai bên và những người làm chứng đều cho rằng hộ ông Q và hộ bà X từ trước đến nay sử dụng đất như hiện trạng không có thay đổi. Nên bà X cho rằng hộ ông Q lấn chiếm của bà diện tích khoảng 20m2 (rộng 0,4m x dài 50m) là không có căn cứ.

[5] Bản án sơ thẩm cho rằng, theo khoản 2 Điều 175 Bộ luật dân sự quy định: “Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất”. Như vậy, ranh giới thửa đất 1506 của hộ bà X và thửa đất 1480 của hộ ông Q được xác định từ điểm cuối mái ngoái của nhà bà X kéo dài một đường thẳng đến tim cây dừa do ông Lê Đình T1 trồng năm 1977, từ đó khẳng định diện tích đang tranh chấp 25,6m2 mà hộ ông Q sử dụng là của hộ bà X. Thấy rằng, theo các bên thừa nhận và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, có một phần mái ngói của nhà bà X nằm trên diện tích đang trang chấp và có tấm đanh (ô van) trên cửa sổ (bề rộng 0,2m; dài 1,2m), chứ không phải “từ ranh giới của thửa đất” như điều luật đã nêu trên.

[6] Xét kháng cáo của bị đơn ông Lê Đình Q, thấy rằng, như đã phân tích lập luận nêu trên, hồ sơ vụ án không có đủ chứng cứ để chứng minh hộ ông Lê Đình Q lấn chiếm 20m2 đất của hộ bà X và như phân tích lập luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên toà phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở.

Từ những tài liệu chứng cứ, phân tích và lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, Toà án cấp sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp với chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án; không có căn cứ để chứng minh hộ ông Lê Đình Q lấn chiếm 20m2 đất của hộ bà X. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Kháng cáo của bị đơn về đề nghị bác đơn khởi kiện của nguên đơn là có căn cứ nên được chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Do Bản án sơ thẩm bị sửa nên cấp phúc thẩm xác định lại án phí sơ thẩm theo quy định tại 29 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 31/12/2016 về án phí lệ phí Toà án và xác định lại nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng theo Điều 157,165 Bộ luật tố tụng dân sự. Về chi phí tố tụng các bên đương sự không thoả thuận được nên buộc chịu theo quy định của pháp luật.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm dân sự, tuy nhiên bà Võ Thị X là người cao tuổi và hộ nghèo nên được miễn án phí phúc thẩm theo quy định.

Kháng cáo được chấp nhận nên ông Lê Đình Q không phải chịu án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Đình Q, sửa Bản án sơ thẩm. Không chấp nhận kháng cáo của nguên đơn bà Võ Thị X. Căn cứ vào các Điều 163, Điều 166, Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 157; Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 31/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị X về việc buộc vợ chồng ông Lê Đình Q phải trả 20m2 đất đã lấn chiếm (rộng 0,4m x dài 50m) từ bức tường thứ hai của bà cho đến hết chiều dài thửa đất, đồng thời trả lại nguyên trạng hình thể sơ đồ thửa đất 1506, tờ bản đồ số 2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được UBND huyện V cấp ngày 29/12/2002; trả lại nguyên hiện trạng giới cận liền kề phía Bắc (giáp liền với thửa đất 1480 của ông Lê Đình Q) là một đường thẳng từ trước ra sau như hiện trạng hình thể của thửa đất 1506, tờ bản đồ số 2, diện tích 470m2 theo GCNQSDĐ được UBND huyện V cấp ngày 29/12/2003.

2. Về chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm:

Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tổng cộng là 32.300.000 đồng, bà Võ Thị X phải chịu. Số tiền này bà Võ Thị X nộp tạm ứng 18.500.000 đồng, ông Lê Đình Q bà Võ Thị S nộp tạm ứng 13.800.000 đồng nên buộc bà Võ Thị X trả lại cho ông Lê Đình Q, bà Võ Thị S 13.800.000 đồng (mười ba triệu, tám trăm nghìn đồng).

Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Võ Thị X được miễn.

3. Về án phí phúc thẩm dân sự:

- Bà Võ Thị X được miễn tiền án phí phúc thẩm dân sự nên được hoàn trả số tiền 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí phúc thẩm số 0000221 ngày 14/10/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

- Ông Lê Đình Q và bà Võ Thị S không phải chịu án phí phúc thẩm dân sự nên được hoàn trả số tiền 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí phúc thẩm số 0000220 ngày 13/10/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định (do Lê Thị Mỹ H nộp).

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 147/2023/DS-PT

Số hiệu:147/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về