TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 14/2024/DS-PT NGÀY 05/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 05 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 19/2023/TLPT-DS ngày 30/10/2023 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 34/2023/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện D bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 17/2023/QĐPT-DS 04 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1981 (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Bá N, sinh năm 1952 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh B.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông N: Ông Nguyễn Bỉnh H - Luật sư, công ty L2, đoàn luật sư tỉnh B (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1956 (có mặt).
2. Chị Nguyễn Thị L1, sinh năm 1983 (vắng mặt).
Chị L1 ủy quyền cho anh Q.
Cùng địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì vụ án có nội dung như sau: Nguyên đơn anh Nguyễn Văn Q trình bày: Nguồn gốc thửa đất của gia đình anh và của gia đình ông Nguyễn Bá N trước đây là của ông Phạm Đình T. Ngày 07/9/2019 vợ chồng anh nhận chuyển nhượng thửa đất số 508, tờ bản đồ số 31, diện tích 159,7m2 ở thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh B của bà Phạm Thị Mai H1. Khi mua bán hai bên có lập Hợp đồng mua bán và được công chứng theo quy định của pháp luật. Ngày 15/9/2019 vợ chồng anh được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này mang tên ông Nguyễn Văn Q, bà Nguyễn Thị L1.
Hiện trạng thửa đất của vợ chồng anh vẫn là đất trống chưa xây dựng công trình gì trên đất. Do tin tưởng nên khi mua bán anh không kiểm tra lại hiện trạng đất. Khi anh tiến hành xây dựng thì phát hiện phần diện tích đất của gia đình anh thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khoảng 12m2 ở phía Tây Bắc thửa đất phía mặt tiền dài 1,71m và phía cuối thửa đất dài 0,45m chạy dọc theo thửa đất. Phần đất này nằm trong thửa đất của hộ ông Nguyễn Bá N, nguyên nhân là do trước đây phần đất này của ông Phạm Đình T sau khi bán cho bà Phạm Thị Mai H1, do bà H1 ở Hà Nội và không xây dựng công trình gì trên đất nên ông T đã xây dựng tường ranh giới giữa hai thửa đất đã lấn sang phần đất của gia đình anh phần diện tích đất trên. Sau đó ông T bán phần đất còn lại cho ông Nguyễn Minh T1 và ông T1 bán lại cho ông Nguyễn Bá N.
Hiện tại ông N đang quản lý, sử dụng phần diện tích đất của gia đình anh. Hiện trạng ranh giới giữa hai thửa đất là bức tường do ông T xây dựng. Mặt khác, khi làm máng nước ông N còn làm máng nước thò sang gia đình anh khoảng 50cm.
Do vậy anh đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Bá N phải tháo dỡ các tài sản trên đất để trả gia đình anh phần diện tích đất khoảng 12m2 ở phía Tây Bắc thửa đất của gia đình anh phía mặt tiền là 1,71 m và phía cuối thửa đất rộng 0,45m chạy dọc theo thửa đất dài 18,5m. Buộc ông N phải tháo dỡ máng nước thò sang phần đất của gia đình anh là 50cm.
Bị đơn ông Nguyễn Bả N trình bày: Nguồn gốc thửa đất của gia đình ông và của anh Nguyễn Văn Q trước đây là của ông Phạm Đình T. Thửa đất của ông T được tách làm ba thửa: Một thửa bán cho ông C; 01 thửa bán cho bà H1 và bà H1 bán cho anh Q; 01 thửa bán cho ông T1 và ông T1 bán lại cho ông.
Thửa đất của vợ chồng ông trước đây ông Phạm Đình T bán cho ông Nguyên Minh T1, sinh năm 1984 ở Tổ B, phường G, quận L, Hà Nội và ông T1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/8/2013 do UBND huyện T cấp đối với thửa đất số 540, diện tích 194,7m tại thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh B. Ngày 22/11/2013, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của ông T1 đối với thửa đất trên và Hợp đồng chuyển nhượng được công chứng tại Văn phòng C2. Ngày 03/12/2013, vợ chồng ông được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 540, diện tích 194,7m2 tại thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh B.
Về hiện trạng thửa đất: Khi vợ chồng ông mua trên đất có nhà 03 tầng và tường bao khuôn viên thửa đất. Các tài sản vợ chồng ông sử dụng vẫn ổn định từ khi mua, vợ chồng ông chỉ làm thêm lán để xe. Các tài sản trên đất trước đây do ông Phạm Đình T xây dựng. Phần đất giáp ranh giữa nhà ông và nhà anh Q mà anh Q cho rằng là đất của anh Q là một phần nhà ba tầng và một bức tường 110. Theo vợ chồng ông được biết thì các tài sản ông T xây dựng từ khoảng năm 2004.
Nay anh Q cho rằng gia đình phải trả phần diện tích đất khoảng 12m2 phần đất giáp ranh giữa hai gia đình thì ông không nhất trí vì phần đất gia đình ông từ khi mua vẫn nguyên trạng không lấn chiếm của gia đình anh Q. Do đó anh Q yêu cầu buộc ông phải tháo dỡ máng nước là không có căn cứ.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L là vợ của ông Nguyễn Bá N nhất trí ý kiến trình bày của ông N.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị L1 trình bày: Chị đã được xem biên bản ghi lời khai của chồng chị là anh Nguyễn Văn Q ngày 23/3/2023 tại Tòa án nhân dân huyện D. Chị nhất trí với ý kiến trình bày của anh Q. Do điều kiện công việc nên chị ủy quyền cho anh Nguyễn Văn Q thay mặt chị tham gia tố tụng và quyết định mọi vấn đề liên quan đến nội dung tranh chấp. Ý kiến của anh Q chị nhất trí. Vì điều kiện công việc nên chị xin vắng mặt tại các buổi làm việc tại Tòa án cũng như phiên tòa xét xử nếu có.
Tại phiên tòa sơ thẩm anh Nguyễn Văn Q yêu cầu ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L phải tháo dơ tài sản, trả cho anh phần diện tích đất 12m2 (mặt tiền là 1,71m và phía cuối thửa đất rộng 0,45m chạy dọc theo thửa đất dài 18,5m) và tháo dơ máng nước tầng 3 diện tích là 1,8m2 để trả lại khoảng không cho gia đình anh. Do phần đất 12m2 gia đình ông N đang sử dụng là một phần nhà 03 tầng và lán nên anh đề nghị giữ nguyên hiện trạng nhưng anh đề nghị ông N, bà L phải trích trả cho anh bằng tiền. Ông N, bà L không nhất trí với yêu cầu của anh Nguyễn Văn Q.
Từ những nội dung trên Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 264, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 166, Điều 175, Điều 579 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 166, 170, 202, 203 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí tòa án, xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn Q.
1.1. Giao cho ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L được sử dụng phần đất diện tích 12m2, có tứ cận: Phía Đông Nam giáp nhà ông H2 dài 0,14m; Phía Đông Bắc giáp nhà anh Q gồm các đoạn 9:10 (đúng là 12:11) dài 9,03m; 10:3 (đúng là 11:3”) dài 6,23m; Phía Tây Bắc giáp đường làng đoạn 3:3” dài 1,70m; phía Tây Nam giáp phần đất ông N (đoạn 3:12) dài 15,41m nhưng ông N, bà L phải trích trả cho anh Q, chị L1 số tiền 324.000.000 đồng.
1.2. Buộc ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L phải tháo dỡ phần máng nước tầng 3 diện tích là l,8m2 (Phần hậu nhà rộng 0,2m; phần đầu nhà rộng 0,09m chạy dọc hồi nhà dài 9,03m) để trả lại khoảng không cho anh Nguyễn Văn Q, chị Nguyễn Thị L1. (Có sơ đồ kèm theo).
Các đương sự có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lệ phí Tòa án, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 20 tháng 9 năm 2023, ông Nguyễn Bá N kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Trong phần tranh luận, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, nguyên đơn đề nghị hội đồng xét xử và phía nguyên đơn được giữ nguyên hiện trạng sử dụng và bị đơn có nghĩa vụ trích trả cho nguyên đơn 180.000.000đ; nguyên đơn nhất trí với ý kiến của bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kết quả tranh tụng tại phiên tòa:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Bá N nộp trong thời hạn luật định đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án [2.1] Về nguồn gốc diện tích đất tranh chấp: Anh Nguyễn Văn Q cho rằng trước đây ông Phạm Đình T chủ cũ của thửa đất có xây dựng có lấn sang phần đất của chị Phạm Thị Mai H1 và sau đó chị H1 bán cho anh thửa đất số 508, diện tích 159,7m2 sau khi đo anh phát hiện thiếu 12m2 ở phía Tây Bắc thửa đất của gia đình anh phía mặt tiền là 1,71m, phía cuối thửa đất rộng 0,45m chạy dọc theo thửa đất dài 18,5m. Ngoài ra, ông N làm máng nước sang phần đất của anh theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ diện tích là 1,8m2. Ông Nguyễn Bà N1, bà Nguyễn Thị L cho rằng từ khi mua thửa đất của ông Nguyễn Minh T1 thì thửa đất vẫn được giữ nguyên hiện trạng ranh giới và vị trí các mốc giới thửa đất, các tài sản trên đất ông bà không xây lấn chiếm phần đất của anh Q. Phần đất gia đình ông, bà thừa là do sử dụng phần đất 60cm mặt tiền của nhà ông C.
[2.2] Xác minh hồ sơ quản lý đất tại UBND xã H thể hiện: về nguồn gốc thửa đất của gia đình anh Q, ông N1 là nhận chuyển nhượng thửa đất có nguồn gốc của ông Phạm Đình T. Theo bản đồ địa chính năm 1996, thửa đất của gia đình anh Q và gia đình ông N1 đang sử dụng là thửa số 121, diện tích 422m2. Theo sổ mục kê thể hiện chủ sử dụng đất là ông Phạm Đình T. Ngày 29/10/1996 ông Phạm Đình T được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên.
[2.3] Theo hồ sơ tách thửa năm 2008 thể hiện: Phần đất ông T bán cho bà Phạm Thị Mai H1 có kích thước dài 15m, rộng 10m; Phần đất bán cho ông Nguyễn Văn C1 có kích thước dài 15m, rộng 5,6m; Phần đất ông T có kích thước dài 15m, rộng 12,9m. Theo bản đồ năm 2012 thửa đất số 121 được tách làm 03 thửa là thửa số 508, diện tích 159,7m2; thửa số 540, diện tích 194,7m2; thửa số 539 diện tích 87,4m2. Theo hồ sơ Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cung cấp thể hiện các thửa đất trên như sau:
- Đối với thửa số 508, diện tích 159,7m2: Ngày 02/6/2004 ông T, bà T2 chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Mai H1 số thửa 121B, diện tích 150m2. Ngày 24/4/2014 bà H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thừa số 508, diện tích 159,7m2. Ngày 07/8/2019 bà H1 chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất trên cho anh Nguyễn Văn Q, chị Nguyễn Thị L1. Ngày 15/8/2019 anh Q, chị L1 được Sở tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 508, diện tích 159,7m2.
- Đối với thửa số 540, diện tích 194,7m2: Ngày 23/7/2011 ông Phạm Đình T, bà Trần Thị T3 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh T1 thửa đất số 549, tờ bản đồ số 6P, diện tích 188m2. Ngày 28/8/2013 ông Nguyễn Minh T1 được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 540, tờ bản đồ số 31, diện tích 194,7m2. Ngày 22/11/2013 ông T1 chuyển nhượng thửa đất này cho ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L. Ngày 03/12/2013 ông N, bà L được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 540, tờ bản đồ số 31, diện tích 194,7m2.
- Đối với thửa số 539 diện tích 87,4m2: Ngày 23/8/2008 ông Phạm Đình T, bà Trần Thị T3 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn C1 thửa đất số 548, diện tích 84m2. Ngày 23/8/2012 ông Cl được UBND huyện T cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thửa số 539 diện tích 87,4m2.
[2.4] Khi tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với diện tích đất tranh chấp, đối chiếu với bản đồ địa chính năm 2012 (theo sơ đồ đo vẽ hiện trạng) thì:
- Thửa đất của ông N, bà Lý số thửa 540: Diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 194,7m2; Diện tích thực tế là 214,9m2 (gồm 0,6m mặt tiền giáp nhà ông C1, được giới hạn bởi các điểm 7, 2, 3, 4, 5, 6, 11, 10, 9, 12, 13, 7): Trong đó có 6,51m2 lấn ra đường làng; 13,8 m2 lấn sang thửa đất số 508 (trong đó có 1,8m2 là phần máng nước);
- Thửa đất của anh Q, chị L1 số thửa 508: Diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 159,7m2; Diện tích thực tế 148,2m2 (được giới hạn bởi các điểm 9, 6, 7, 8, 9): Trong đó có 2,34m2 lấn ra đường làng; 13,8 m2 thửa đất số 508 lấn sang (trong đó có 1,8m2 là phần máng nước);
- Thửa đất nhà ông C1 thửa số 539: Diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 87,4m2; Diện tích thực tế là 104m2 (được giới hạn bởi các điểm 14, 15, 16, 17, 1, 2, 7, 14); Ranh giới sử dụng theo hiện trạng đúng với bản đồ địa chính năm 2012, không lấn sang thửa số 540 của nhà ông N, bà L.
[2.5] So sánh hồ sơ tách thửa năm 2008 với Bản đồ năm 2012 lưu giữ tại UBND xã H và hồ sơ thửa đất các hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện mặt tiền các thửa đất có sự biến động cụ thể: Thửa đất hộ ông C1, năm 2008 (rộng 5,6m), năm 2012 (rộng 5,03m) giảm 0,57m. Thửa đất hộ ông N, năm 2008 (rộng 12,9m), năm 2012 (rộng 12,61m) giảm 0,3m. Thửa đất của anh Q, năm 2008 (rộng 10m), năm 2012 (rộng 8,17m) giảm 1,83m.
[2.6] Việc UBND xà H tách thửa đất số 121 thành 03 thửa có mặt tiền là 28,5m là không đúng hiện trạng thực tế của thửa đất chỉ 25,8lm. Chênh lệch giảm 2,69m là do khi tách thửa chỉ tách trên hồ sơ thửa đất không tách trên thực tế hiện trạng thửa đất. Tuy số liệu các cạnh có sự biến động nhưng đối với hộ ông C1 sau khi nhận chuyển nhượng của hộ ông T đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 84m2 đến năm 2012 thực hiện chính sách cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông C1 đã xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thửa đất số 539 diện tích 87,4m2 và đã được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối chiếu hiện trạng sử dụng đất của hộ ông C1 đã xây công trình trên thửa đất phù hợp với hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2012. Ranh giới giữa hai thửa đất (hộ ông C1 và hộ ông N) không có sự thay đổi. Do đó ông N cho rằng hộ ông C1 còn 0,6m đất ở phần đất của gia đình ông là không có căn cứ.
[2.7] Đối chiếu giữa hiện trạng thửa đất với Bản đồ năm 2012 và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông N, bà L thì thửa đất của ông N, bà L thừa 13,8m2 gồm 12m2 và phần máng nước tầng 3 là 1,8m; Đối chiếu hiện trạng thửa đất, Bản đồ năm 2012 và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Q, chị L1 thì thửa đất của anh Q, chị L1 thiếu 12m2. Theo chị H1 cho biết khi chị mua thửa đất của ông T, bà T3 trên phần đất có nhà cấp 4 của hộ ông T, sau khi ông T bán phần đất cho chị ông T đã tháo dỡ và giao đất trống cho chị. Khi ông T làm nhà 03 tầng thì chị về và phát hiện ông T lấn sang phần đất của gia đình chị khoảng 10m. Việc ông T sử dụng đất lấn sang phần đất bán cho chị H1 ông T cũng thừa nhận khi làm nhà 03 tầng có lấn sang phần đất của chị H1.
Mặt khác, thửa đất của hộ ông N, bà L nguồn gốc là của ông T, bà T3 theo hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông T1; hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông N, bà L thì phần diện tích 12m2 các bên không mua bán chuyển nhượng cho nhau và không nằm trong giấy chứng nhận quyền dụng đất của ông N, bà L.
[2.8] Bản án sơ thẩm xác định thửa đất ông N, bà L đang quản lý quá trình sử dụng có ngôi nhà 03 tầng trên đất khi ông T xây dựng đã lấn sang phần đất của anh Q, chị L1 (thửa đất trước đó là của chị H1, sau đó bán cho anh Q, chị L1) 12m2 là có căn cứ, cần được giữ nguyên. Ngoài ra nhà 03 tầng của ông N phần máng thoát nước tầng 3 chìa sang phần đất của anh Q là 1,8m2 (Phần hậu nhà rộng 0,2m; phần đầu nhà rộng 0,09m chạy dọc hồi nhà dài 9,03m). Ông N, bà L phải trả anh Q, chị L1 phần diện tích 12m2 và tháo dở phần máng nước tầng 3 diện tích 1,8m2 trả lại khoảng không cho anh Q, chị L1.
[2.9] Xét thấy hiện trạng sử dụng đất phần diện tích 12m2 là một phần diện tích ngôi nhà 03 tầng và một phần lán. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Q đề nghị giữ nguyên hiện trạng và phần diện tích của ông N, bà L thừa 12m2 anh yêu cầu ông N, bà L trích trả tương ứng với số tiền theo kết quả định giá tài sản. Do đó, bản án sơ thẩm quyết định giao cho ông N, bà L sử dụng phần diện tích 12m2, nhưng ông N, bà L phải trích trả cho anh Q, chị L1 số tiền: 12m2x 27.000.000 đồng = 324.000.000 đồng là có căn cứ. Tuy nhiên tại phiên tòa các đương sự trong vụ án tự nguyện thỏa thuận với nhau việc giải quyết toàn bộ vụ án, sự thỏa thuận của các đương sự không trái pháp luật, đạo đức xã hội và phù hợp với pháp luật, do đó, cần công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể như sau: Giao cho ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L được sử dụng phần đất diện tích 12m2, có tứ cận: Phía Đông Nam giáp nhà ông H2 dài 0,14m; Phía Đông Bắc giáp nhà anh Q gồm các đoạn 12-11 dài 9,03m; 11-3” dài 6,23m; Phía Tây Bắc giáp đường làng đoạn 3:3” dài 1,70m; phía Tây Nam giáp phần đất ông N đoạn 3:12 dài 15,41m nhưng ông N, bà L phải trích trả cho anh Q, chị L1 số tiền 180.000.000 đồng và ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L phải tháo dỡ phần máng nước tầng 3 diện tích là 1,8m2 (Phần hậu nhà rộng 0,2m; phần đầu nhà rộng 0,09m chạy dọc hồi nhà dài 9,03m) để trả lại khoảng không cho anh Nguyễn Văn Q, chị Nguyễn Thị L1.
[2.10] Đối với phần diện tích các hộ lấn ra đường theo hiện trạng sử dụng UBND xã H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản:
[3.1] Án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông N, bà L là người cao tuổi và có đơn xin miền án phí nên được miễn án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí nên bản án dân sự sơ thẩm miễn toàn bộ án phí cho ông N, bà L là có căn cứ.
Ông Nguyễn Bá N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[3.2] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Anh Q tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản (xác nhận anh Q đã nộp đủ) nên bản án dân sự sơ thẩm chấp nhận là có căn cứ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 148 Bộ Luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguvễn Bá N, sửa bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh B theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
2. Sự thỏa thuận của các đương sự như sau:
1.1. Giao cho ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L được sử dụng phần đất diện tích 12m2, có tứ cận: Phía Đông Nam giáp nhà ông H2 dài 0,14m; Phía Đông Bắc giáp nhà anh Q gồm các đoạn 12-11 dài 9,03m; 11- 3” dài 6,23m; Phía Tây Bắc giáp đường L” dài 1,70m; phía Tây Nam giáp phần đất ông N (đoạn 3-12) dài 15,41m nhưng ông N, bà L phải trích trả cho anh Q, chị L1 số tiền 180.000.000 đồng.
1.2. Buộc ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L phải tháo dỡ phần máng nước tầng 3 diện tích là 1,8m2 (Phần hậu nhà rộng 0,2m; phần đầu nhà rộng 0,09m chạy dọc hồi nhà dài 9,03m) để trả lại khoảng không cho anh Nguyễn Văn Q, chị Nguyễn Thị L1. (có sơ đồ kèm theo).
Các đương sự có quyền liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh lý biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản:
3.1 Án phí: Anh Nguyễn Văn Q không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại anh Nguyễn Văn Q số tiền 7.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số AA/2021/0002349 ngày 02/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh B.
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Bá N, bà Nguyễn Thị L; Ông Nguyễn Bá N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
3.2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Anh Q tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản (xác nhận anh Q đã nộp đủ) Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 14/2024/DS-PT
Số hiệu: | 14/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về