Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 120/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 120/2022/DS-ST NGÀY 10/09/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 10 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai (bằng hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu: điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang và điểm cầu thành phần Ủy ban nhân dân Phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) vụ án dân sự thụ lý số: 445/2019/TLST-DS ngày 12 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Quyền sử dụng đất”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2022/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1940;

Địa chỉ: số B đường G, Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang. (Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần Ủy ban nhân dân Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang) (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn: Luật sư Trần Thanh H – Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang.

Địa chỉ: Văn phòng Luật sư Trần Thanh H – Số A đường R, Phường B, Tp M, tỉnh Tiền Giang. (Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần Ủy ban nhân dân Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang) (có mặt)

* Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N (tên gọi khác: N1), sinh năm 1959;

Địa chỉ: số A1 đường G, khu phố H, Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang. (Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần Ủy ban nhân dân Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang) (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:

1. Ông Đoàn Hữu V, sinh năm: 1960; (vắng mặt) Địa chỉ: Số C ấp P, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang. (Theo văn bản ủy quyền ngày 09/3/2020)

2. Ông: Nguyễn Hồng S, sinh năm: 1982;

Địa chỉ: số A2 đường G, khu phố H, Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang. (Theo văn bản ủy quyền ngày 09/9/2022) (Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần Ủy ban nhân dân Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang) (có mặt)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Huỳnh Thị Tuyết M, sinh năm 1977;

Địa chỉ: số 30/4B đường Lê Thị Hồng G, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. (Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần Ủy ban nhân dân Phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) (có mặt)

2. Chị Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 2006;

Đại diện theo pháp luật: Bà Huỳnh Thị Tuyết M, sinh năm 1977.

Địa chỉ: số 30/4B đường Lê Thị Hồng G, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

3. Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1932; (xin vắng mặt) Địa chỉ: số 12/4A đường Lê Thị Hồng G, khu phố 2, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 12/12/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn S trình bày:

Phần đất có diện tích 201,6m2 thuộc thửa số 91 tờ bản đồ số 42 tại số 30/4B đường Lê Thị Hồng G, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có nguồn gốc là của bác sĩ Huỳnh Công C cho cha mẹ ông Nguyễn Văn S là Nguyễn Văn P và Đặng Thị Ơ vào năm 1954. Năm 1977 ông được cha mẹ cho cất nhà ở trên phần đất này. Đến năm 2004 do nghe phía Nguyễn Thị N làm chủ quyền toàn bộ 1000m2 đất nên ông mới làm đơn xin địa chính Phường 6 tên Chín (hiện nay ông C đã mất) cho ông cắt ra riêng 201,6m2 đất vì trên đất này có nhà của ông diện tích khoảng 100m2, có 04 ngôi mộ (mộ ba ông Nguyễn Văn P, anh thứ 10 Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn N con của Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn Th là mộ con ông), vài năm sau phía bà N di dời 03 ngôi mộ về phần đất của bà N, trên đất có 01 cây dừa, 02 bụi chuối. Thời điểm năm 2004 địa chính đo cắt không có làm thủ tục đo đạc và cho các hộ ký giáp ranh. Năm 2019 ông có ký hợp đồng đo đạc với Phòng Tài nguyên môi trường để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phía bà N ngăn cản nên phát sinh tranh chấp.

Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất có diện tích 201,6m2 (hiện nay đo đạc thực tế là 182,9m2) thuộc thửa số 91 tờ bản đồ số 42 tại số 30/4B đường Lê Thị Hồng G, khu phố 2, Phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thuộc quyền quản lý sử dụng của ông.

* Bị đơn bà Nguyễn Thị N trình bày: Bà nội bà là cụ Đặng Thị Ơ là tá điền của ông Huỳnh Công C, đến thời điểm 1970 được chủ đất Huỳnh Công C cho khoảng hơn 02 công đất ruộng với nền nhà. Riêng 1000m2 do ông Huỳnh Công C (đã chết) cho riêng ba bà là ông Nguyễn Văn Đ khoản năm 1964, đến năm 1989 ba bà mới cho lại cho bà 1000m2 lúc cho có làm giấy tờ cho đất nhưng thất lạc. Do có tranh chấp với ông S nên bà không làm giấy đất được, đến năm 2000 khi ông Đ về nước thì bà có báo cho ông Đ biết sự việc trên, do đó vào năm 2000 có đến UBND Phường 6 làm biên bản, biên bản có ba bà Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn C và có chính quyền Nguyễn Văn M, Nguyễn Thị Thanh T ký tên. Theo biên bản năm 2000 nên bà mới làm giấy tờ để được cấp giấy diện tích khoảng 2000m2 (gồm phần đất 1000m2 của ba bà được bác sĩ Chiêu cho với khoảng hơn 1000m2 của bên nội), sau đó năm 2008 do bà có bán đất nên được cấp giấy lại và trên phần đất năm 2008 có phần đất 201,6m2 mà ông S đang tranh chấp với bà.

Bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông S, phần đất của ông S đang sử dụng là của gia đình bà.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ trình bày:

Ông là anh cùng cha khác mẹ với ông Nguyễn Văn S. Ông xác định nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Huỳnh Công C tặng riêng cho ông từ năm 1964. Đến năm 1975 sau khi miền nam giải phóng ông S đi lính ngụy quân ngụy quyền không có đất để ở nên có xin ông ở nhờ trên đất của ông. Ông chỉ cho ông S ở nhờ đến hết đời, ngoài ra ông không cho bất kỳ ai thửa đất nào khác. Toàn bộ diện tích hơn 2.000m2 ông chỉ cho con gái ông là Nguyễn Thị N đứng tên. Do có tranh chấp với ông S nên con ông là Nguyễn Thị N chưa làm sổ đỏ được. Nay ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông S. Ông già yếu đi lại khó khăn nên xin vắng mặt trong quá trình tòa án giải quyết vụ án.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Tuyết M trình bày:

Bà vợ ông S, bà thống nhất với lời trình bày của ông S.

* Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn S vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Người bảo vệ quyền quyền và lợi ích hợp pháp của ông S có nhiều lập luận cho rằng việc khởi kiện của ông S là có căn cứ. Bởi ông S đã ở trên phần đất tranh chấp từ năm 1977 đến nay, gia đình bà N cũng thừa nhận là gia đình ông S đã ở trên đất tranh chấp từ năm 1977. Ông S là người đăng ký kê khai theo sổ địa chính của Phường 6, thành phố Mỹ Tho ký ngày 09/4/2004, thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước từ đó đến nay. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày và phát biểu tranh luận của các đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn S khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất có diện tích 201,6m2 thuộc thửa số 91 tờ bản đồ số 42 tại số 30/4B đường Lê Thị Hồng G, Phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thuộc quyền quản lý sử dụng của ông S, bị đơn bà N cho rằng phần đất tranh chấp là của bà N. Do đó, hội đồng xét xử xác định đây là vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất quy định tại khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Văn Đ có đơn xin giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ theo qui định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với ông Đoàn Hữu V là đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ngày 09/9/2022 ông V có đến Tòa án nộp đơn xin hoãn phiên tòa ngày 10/9/2022. Tòa án đã lập biên bản làm việc giải thích lý do ông V xin hoãn phiên tòa không thuộc trường hợp bất khả kháng nên không được Tòa án chấp nhận. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay ông V vẫn vắng mặt, do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông V theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Diện tích đất ông S và bà N đang tranh chấp hiện nay chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai. Ông S lựa chọn khởi kiện tại Tòa án để giải quyết tranh chấp, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013.

[4] Về yêu cầu của đương sự: Ông S cho rằng phần đất có diện tích 201,6m2 (đo đạc thực tế 182,9m2) thuộc thửa số 91 tờ bản đồ số 42 tại số 30/4B đường Lê Thị Hồng G, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có nguồn gốc là của bác sĩ Huỳnh Công C cho cha mẹ ông Nguyễn Văn S là Nguyễn Văn P và Đặng Thị Ơ vào năm 1954. Năm 1977 ông được cha mẹ cho cất nhà ở trên phần đất này. Đến năm 2004 do nghe phía Nguyễn Thị N làm chủ quyền toàn bộ 1000m2 đất nên ông mới làm đơn xin địa chính Phường 6 tên Chín (hiện nay ông C đã mất) cho ông cắt ra riêng 201,6m2 đất vì trên đất này có nhà của ông diện tích khoảng 100m2. Thời điểm năm 2004 địa chính đo cắt không có làm thủ tục đo đạc và cho các hộ ký giáp ranh. Năm 2019 ông có ký hợp đồng đo đạc với Phòng Tài nguyên môi trường để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phía bà N ngăn cản nên phát sinh tranh chấp.

Xét thấy, diện tích tranh chấp 201,6m2 (đo đạc thực tế 182,9m2) cả ông S và bà N đều thừa nhận có nguồn gốc từ bác sĩ Huỳnh Công C (đã chết). Tuy nhiên, ông S thì cho rằng ông C đã cho cha mẹ ông S từ năm 1954, năm 1977 cha mẹ ông S cho lại ông S sử dụng đến nay. Bà N và ông Đ (cha bà N) thì cho rằng ông C cho ông Đ từ năm 1964. Sau năm 1975 ông S đi lính cho ngụy về không có đất ở nên mới xin ở nhờ trên đất. Vì ông S và ông Đ là anh em cùng cha khác mẹ nên ông Đ cho ông S ở nhờ, nhưng với cam kết là ở nhờ hết đời ông S. Thời điểm cho ở nhờ cũng không làm giấy tờ.

Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời gian 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu…”. Như vậy, ông S có sử dụng phần đất tranh chấp từ năm 1977 đến nay là 45 năm, nhà bà N ở cạnh nhà ông S cũng nhìn thấy ông S ở liên tục, công khai nhưng không có ý kiến gì. Ông S có thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước từ năm 1993 đến nay theo Thông báo về việc xác nhận số thuế đã nộp cho Ngân sách nhà nước ngày 28/8/2013 của Chi cục thuế thành phố Mỹ Tho (BL17) và có đăng ký kê khai trong sổ địa chính của Phường 6, Tp Mỹ Tho (BL20). Do đó việc ông S yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sở hữu của ông S là có căn cứ.

Bà N, ông Đ cho rằng đất tranh chấp là của mình cho ông S ở nhờ nhưng không có tài liệu nào chứng minh có việc cho ở nhờ. Hơn nữa phần đất tranh chấp cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai thì không thể cho rằng là của bà N cho ông S ở nhờ. Bà N có nộp 01 giấy xác nhận có chữ ký của bác sĩ Huỳnh Công C bảng photo (BL 57) để chứng minh rằng đất tranh chấp là của bác sĩ Huỳnh Công C cho ông Đ vào năm 1964. Tuy nhiên, giấy xác nhận này nội dung là bác sĩ Chiêu cho ông Đ mượn đất mở lò bánh mì khoản 1000m2, không phải hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Đối với toàn bộ đất đai thuộc quyền sở hữu của bà N, bà N đã đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì không có lý gì chừa lại phần đất ông S đang sử dụng.

Đối với biên bản hòa giải ngày 13/4/2000 (BL63) là chứng cứ bà N cho rằng ông S thừa nhận ở nhờ trên đất của bà N đến hết đời ông S trả lại đất. Biên bản này chỉ là bản photo, hơn nữa ngày hòa giải theo biên bản là ngày 13/4/2000 nhưng ngày đóng dấu xác nhận của Ủy ban lại là ngày 04/01/2001 là không phù hợp. Ông S không thừa nhận chữ ký của mình trong biên bản hòa giải ngày 13/4/2000. Sau đó Tòa án có tiến hành xác minh cán bộ ghi biên bản hòa giải ngày 13/4/2000 thì được cung cấp thông tin ông Nguyễn Văn Đ là ba bà N không có mặt tham gia hòa giải, không có ký tên vào biên bản hòa giải nhưng có ghi ý kiến vào biên bản hòa giải. Thời điểm năm 2000 do quản lý về thủ tục của Ủy ban chưa chặt chẽ nên không thông qua thị thực của Ủy ban tại thời điểm ngày 13/4/2000. Đến năm 2001 do đương sự yêu cầu nên Ủy ban phường xác nhận lại (BL100). Như vậy, biên bản hòa giải ngày 13/4/2000 không được xem là chứng cứ hợp pháp theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bà N không cung cấp được chứng cứ gì mới chứng minh phần đất tranh chấp là của bà N.

Do đó, từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S.

Lập luận của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Quan điểm và đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về chi phí tố tụng: Tại phiên tòa ông S yêu cầu bị đơn hoàn trả toàn bộ chi phí tố tụng gồm: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, thu thập chứng cứ là 2.100.000 đồng; Chi phí đo đạc là 3.815.000 đồng; Chi phí định giá tài sản tranh chấp là 12.000.000 đồng, tổng cộng: 17.915.000 đồng. Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Do đó, bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng, buộc bà N hoàn trả lại cho ông S số tiền chi phí tố tụng 17.915.000 đồng.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 147; Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai;

Căn cứ Điều 95, 100, 203 Luật đất đai năm 2013;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S.

Công nhận phần đất có diện tích 201,6m2 (đo đạc thực tế 182,9m2) thuộc thửa số 91 tờ bản đồ số 42 tại số 30/4B đường Lê Thị Hồng G, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Văn S, vị trí đất có tứ cận như sau:

Bắc giáp Bùi Thị Kim Châu; Nam giáp Nguyễn Thị N; Tây giáp Nguyễn Thị N;

Đông giáp đường Bà Đình; (Có sơ đồ kèm theo).

Ông Nguyễn Văn S được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.

2. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Nguyễn Thị N có nghĩa vụ hoàn lại cho ông Nguyễn Văn S số tiền 17.915.000 đồng (mười bảy triệu chín trăm mười lăm ngàn) đồng.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho ông Nguyễn Văn S 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0000788 ngày 12/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

4. Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị N, bà Huỳnh Thị Tuyết M có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 120/2022/DS-ST

Số hiệu:120/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về