Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 107/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 107/2023/DS-PT NGÀY 17/01/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 21 tháng 12 năm 2022, ngày 12 và 17 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 468/2020/TLPT-DS ngày 05 tháng 10 năm 2020, về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2015/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5571/2022/QĐ-PT ngày 07 tháng 11 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 15526/2022/QĐ-PT ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố H, giữa:

- Nguyên đơn: Ông Phạm Tấn P, chết ngày 06/6/2014.

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Phạm Tấn P:

1.1 Ông Phạm Tấn H, sinh năm 1957

1.2 Ông Phạm Tấn A, sinh năm 1958

1.3 Ông Phạm Tấn H1, sinh năm 1965 Cùng địa chỉ: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Tấn H2, Tấn A1:Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Số E đường T, thị trấn T, huyện B, Thành phố H.

(Theo văn bản ủy quyền số công chứng 003326 lập tại VPCC A)

Người đại diện theo ủy quyền của ông Tn H3:

- Bà Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: E đường T, thị trấn T, huyện B, Thành phố H.

(Theo văn bản ủy quyền số công chứng 003326 lập tại VPCC A)

- Ông Nguyễn Công B, sinh năm 1997 Địa chỉ: 5 Đường số D, Phường F, Quận D, Thành phố H (Theo văn bản ủy quyền số công chứng 001479 ngày 2/3/2022 tại VPCC Nguyễn Minh T1)

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ông Phạm Tấn H1: Luật sư Trần Bảo Q, Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.

1.4 Ông Phạm Tấn N, sinh năm 1954 Địa chỉ: Số C đường Ô, Phường A, Quận A, Thành phố H.

1.5 Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1941 Địa chỉ: B tổ A ấp B, xã V, huyện B, Thành phố H.

1.6 Ông Phạm Tấn S, sinh năm 1944 Địa chỉ: 1620 TALLWOOOMANOR CT VIRGINIA BEACH VA 23464.

1.7 Bà Phạm Thị V, sinh năm 1946 Địa chỉ: H Westminster A, W, Califonia 92683 USA.

1.8 Bà Phạm Thị G, sinh năm 1950 (Chết năm 2019) Địa chỉ: A ấp A, xã V, huyện B, Thành phố H.

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà G: Ông Phạm Hoàng K, sinh năm 1972 Địa chỉ: 9 Hồ N, Phường I, Quận F, Thành phố H 1.9 Bà Phạm Thị T2, sinh năm 1952 Địa chỉ: Số F đường P, Phường A, quận G, Thành phố H.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Ngọc H4, sinh năm 1957 Địa chỉ: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Bà Phạm Thị Đ1 (chết) Địa chỉ: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H.

3.2 Bà Phạm Thị Ấ (chết)

3.3 Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1979 Người đại diện theo ủy quyền của bà N1: Ông Huỳnh Ngọc H4, sinh năm 1957 Cùng địa chỉ: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H.

3.4 Bà Trương Thị K1, sinh năm 1924 (chết năm 2012)

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Trương Thị K1:

3.4.1 Ông Phạm Tấn H, sinh năm 1957

3.4.2 Ông Phạm Tấn A, sinh năm 1958 3.4.3 Ông Phạm Tấn H1, sinh năm 1965 Cùng địa chỉ: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Tn H2, Tn A1:Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: E đường T, thị trấn T, huyện B, Thành phố H.

(Theo văn bản ủy quyền số công chứng 003326 lập tại VPCC A) Người đại diện theo ủy quyền của ông Tấn H3:

- Bà Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: E đường T, thị trấn T, huyện B, Thành phố H.

(Theo văn bản ủy quyền số công chứng 003326 lập tại VPCC A)

- Ông Nguyễn Công B, sinh năm 1997 Địa chỉ: 5 đường số D, Phường F, Quận D, Thành phố H (Theo văn bản ủy quyền số công chứng 001479 ngày 2/3/2022 tại VPCC Nguyễn Minh T1)

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ông Phạm Tấn H1: Luật sư Trần Bảo Q, Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.

3.4.4 Ông Phạm Tấn N, sinh năm 1954 Địa chỉ: Số C đường Ô, Phường A, Quận A, Thành phố H.

3.4.5 Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1941 Địa chỉ: B tổ A ấp B, xã V, huyện B, Thành phố H.

3.4.6 Ông Phạm Tấn S, sinh năm 1944 Địa chỉ: 1620 TALLWOOOMANOR CT VIRGINIA BEACH VA 23464.

3.4.7 Bà Phạm Thị V, sinh năm 1946 Địa chỉ: H Westminster A, W, Califonia 92683 USA.

3.4.8 Bà Phạm Thị G, sinh năm 1950 (chết năm 2019)

Địa chỉ: A ấp A, xã V, huyện B, Thành phố H.

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà G: Ông Phạm Hoàng K, sinh năm 1972 Địa chỉ: 9 Hồ N, Phường I, Quận F, Thành phố H

3.4.9 Bà Phạm Thị T2, sinh năm 1952 Địa chỉ: Số F đường P, Phường A, quận G, Thành phố H.

3.5 Ông Phạm Tấn H, sinh năm 1957

3.6 Ông Phạm Tấn H1, sinh năm 1956

3.7 Ông Phạm Tấn A, sinh năm 1958 Cùng địa chỉ: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Tn H2, Tn A1:Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: E đường T, thị trấn T, huyện B, Thành phố H.

(Theo văn bản ủy quyền số công chứng 003326 lập tại VPCC A) Người đại diện theo ủy quyền của ông Tấn H3:

- Bà Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: E đường T, thị trấn T, huyện B, Thành phố H.

(Theo văn bản ủy quyền số công chứng 003326 lập tại VPCC A) - Ông Nguyễn Công B, sinh năm 1997 Địa chỉ: 5 Đường số D, Phường F, Quận D, Thành phố H (Theo văn bản ủy quyền số công chứng 001479 ngày 2/3/2022 tại VPCC Nguyễn Minh T1)

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Phạm Tấn H1: Luật sư Trần Bảo Q, Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.

3.8 Bà Võ Thị T3, sinh năm 1965 Địa chỉ: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H

3.9 Ông Phạm Tấn N, sinh năm 1954 Địa chỉ: Số C đường Ô, Phường A, Quận A, Thành phố H.

3.10 Bà Phạm Mộng T4 (tên gọi khác Phạm Thị D), sinh năm 1982 Địa chỉ: D đường M, phường B, quận B, Thành phố H.

3.11 Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố H.

Trụ sở: E8/9A Nguyễn Hữu T5, thị trấn T, huyện B, Thành phố H.

- Người kháng cáo: Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn - ông Phạm Tấn H, ông Phạm Tấn A và ông Phạm Tấn H1; bị đơn - ông Huỳnh Ngọc H4; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị N1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/6/2010 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn ông Phạm Tn P trình bày:

Vào khoảng cuối năm 2008, bị đơn xây rào lấn qua phần đất của nguyên đơn khoảng 400m2 thuộc thửa 4020 Tờ bản đồ số 3 tại xã T, huyện B, Thành phố H. Phần đất này nguyên đơn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1132/QSDĐ/1993 ngày 15/7/1993. Nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu tháo bỏ hàng rào và trả lại đất nhưng bị đơn không thực hiện, đến tháng 05/2010 bị đơn còn lắp máy lạnh và làm cửa sổ trên phần đất tranh chấp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Nay yêu cầu bị đơn trả lại 400m2 đất thuộc Thửa 4020, Tờ bản đồ số 03 tại xã T đồng thời tháo bỏ máy lạnh, cửa sổ, sắt thép và hàng rào xây dựng.

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn gồm ông, Phạm Tấn S, bà Phạm Thị V, Ông Phạm Tấn N, bà Phạm Thị Đ, bà Phạm Thị G và bà Phạm Thị T2 đều có lời trình bày thống nhất như nội dung yêu cầu của nguyên đơn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Ông Phạm Văn L là người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Tn H, ông Phạm Tn A và ông Phạm Tấn H1 trình bày: Theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H thì phần đất mà phía bị đơn lấn chiếm chỉ có 364,7m2 thuộc một phần thửa 4020 theo tài liệu chỉnh lý năm 1992 (tương ứng với vị trí 4020-1 và 4020-2), trên phần đất tranh chấp không có máy lạnh, cửa sổ sắt thép.

Do đó thay đổi yêu cầu khởi kiện là đòi lại đất có diện tích 364,7m2 thuộc một phần thửa 4020 tờ bản đồ số 03 theo tài liệu chỉnh lý năm 1992 (tương ứng với vị trí 4020-1 và 4020-2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H) tại xã T, huyện B và tháo dỡ hàng rào trên phần đất này, không yêu cầu về việc tháo dở máy lạnh, cửa sổ sắt thép của nhà D12/9 ấp D, xã T, huyện B.

Bị đơn ông Huỳnh Ngọc H4 trình bày:

Nguyên trước năm 1975 phần đất đang tranh chấp do ông và gia đình ông trực tiếp canh tác, quản lý, sử dụng ổn định. Đến khoảng năm 1990, mẹ của ông - bà Phạm Thị Đ1 tuổi đã cao nên giao lại cho ông tiếp tục sử dụng phần đất này và đã được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1124/QSDĐ-1993 ngày 15/7/1993. Nhà, đất của gia đình ông có từ năm 1975 cho đến nay, cách nhà của nguyên đơn con đường hẻm đất. Con đường hẻm đất đó có từ trước năm 1975 đi thẳng vô nhà bà Đỗ Thị V1 xuống tới rạch C. Còn hàng rào của nhà ông trước kia là hàng dậu Dâm B1. Đến năm 2002 ông có làm lại hàng rào bằng cột bêtông, vào lưới B40 để phòng ngừa trộm cắp. Đến ngày 10/9/2003, ông và vợ Nguyễn Thị L1 (đã chết năm 2008, cả hai không có con) được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu và quyền sử dụng đất ở. Đến năm 2005 do hàng rào bị ngã, gẫy nên có xây dựng lại trên vị trí cũ. Năm 2010 ông có đăng ký xây dựng công trình, xin sửa chữa nhà và đã được Ủy ban nhân dân xã T chấp thuận cho phép sửa chữa, gia đình ông sửa chữa nhà vẫn trên hiện trạng nhà, đất cũ. Nay nguyên đơn yêu cầu trả lại 400m2 đất thuộc thửa 4020 tờ bản đồ số 03 tại xã T đồng thời yêu cầu tháo bỏ máy lạnh, cửa sổ, sắt thép và hàng rào thì ông không đồng ý. Không đồng ý việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện vì không thể tự tiện kiện rồi lại rút.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Phạm Tấn H, ông Phạm Tấn A, ông Phạm Tấn H1, bà Võ Thị T3 có đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Văn L có cùng ý kiến với phía nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ông Phạm Tn N và bà Phạm Mộng T4 (tên gọi khác Phạm Thị D) thống nhất với ý kiến nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị K1 (đã chết theo giấy chứng từ số 28, quyển số 01/2012 ngày 17/5/2012 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, Thành phố H) có những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng gồm bà Phạm Thị Đ, ông Phạm Tấn S, bà Phạm Thị V, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị T2, ông Phạm Tấn N, ông Phạm Tấn H, ông Phạm Tấn A và ông Phạm Tấn H1 (ông H, ông A và ông H1 có đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Văn L) cũng có cùng ý kiến với phía nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Phạm Thị Đ1, bà Phạm Thị chết, không có chồng con.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị N1 có cùng ý kiến với phía bị đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân huyện B xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1132/QSDĐ/1993 cấp ngày 15/7/1993 cho hộ ông Phạm Tấn P là đúng theo trình tự pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thm số 47/2015/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2015, Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H :

Căn cứ khoản 7 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33, điểm c khoản 1 Điều 35, Điều 159, Điều 131, khoản 1 Điều 202, Điều 236, Điều 239 và Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011); Bộ luật dân sự năm 2005, Luật đất đai năm 2003; Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Tấn P (đã chết ngày 06/6/2014 theo giấy chứng tử số 27 Quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã T cấp ngày 12/6/2014) có những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông P gồm bà Phạm Thị Đ, ông Phạm Tấn S, bà Phạm Thị V, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị T2, ông Phạm Tấn N, ông Phạm Tấn H, ông Phạm Tấn A và ông Phạm Tấn H1 đối với bị đơn ông Huỳnh Ngọc H4.

Buộc bị đơn ông Huỳnh Ngọc H4 và các thành viên trong hộ gia đình gồm bà Phạm Thị Đ1, bà Phạm Thị Ấ và bà Nguyễn Thị N1 trả lại cho nguyên đơn ông Phạm Tấn P (đã chết ngày 06/6/2014 theo giấy chứng tử số 27 Quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã T cấp ngày 12/6/2014) có những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông P gồm bà Phạm Thị Đ, ông Phạm Tấn S, bà Phạm Thị V, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị T2, ông Phạm Tấn N, ông Phạm Tấn H, ông Phạm Tấn A phần đất có diện tích 27,7m2 thuộc một phần thửa 4020 tờ bản đồ số 3 (theo tài liệu chỉnh lý năm 1992) (tương ứng với vị trí thửa 150-1 tờ bản đồ số 71 theo tài liệu năm 2005) tại xã T, huyện B và tháo dỡ hàng rào lưới B40 có chiều dài 17,54m, chiều rộng là 3,34m, chiều cao là 1,7m theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H, thực hiện ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

2. Về chi phí đo vẽ, định giá:

2.1 Nguyên đơn phải chịu 1/2 chi phí đo vẽ và định giá với số tiền 1,122,190 đồng (một triệu một trăm hai mươi hai nghìn một trăm chín mươi đồng), được trừ vào tiền tạm ứng chi phí đo vẽ, định giá mà nguyên đơn đã nộp. Nguyên đơn đã nộp đầy đủ chi phí đo vẽ, định giá.

2.2 Bị đơn phải chịu Vi chi phí đo vẽ và định giá với số tiền 1,122,190 đồng (một triệu một trăm hai mươi hai nghìn một trăm chín mươi đồng). Do Nguyên đơn đã tạm ứng chi phí đo vẽ và định giá nên bị đơn có trách nhiệm trả lại cho nguyên đơn số tiền 1,122,190 đồng (một triệu một trăm hai mươi hai nghìn một trăm chín mươi đồng), trả một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Các đương sự thực hiện việc giao nhận chi phí đo vẽ và định giá tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.

Ngày 04/8/2015, Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H nhận được Đơn của ông Huỳnh Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị N1, kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm.

Ngày 05/8/2015, Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H nhận được Đơn của ông Phạm Văn L là đại diện ủy quyền của ông Phạm Tấn H, Phạm Tấn A, ông Phạm Tấn H1, kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị đơn giữ nguyên kháng cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Căn cứ cho yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1993 cấp cho nguyên đơn trọn thửa 4020. Do hai bên gia đình là bà con nên không rào chắn và đất để trống không thể canh tác.Ngoài ra, những người đại diện cho nguyên đơn thống nhất đề nghị sử dụng Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H thì phần đất mà phía bị đơn lấn chiếm chỉ có 364,7m2 thuộc một phần thửa 4020 theo tài liệu chỉnh lý năm 1992 (tương ứng với vị trí 4020-1 và 4020-2) mà không sử dụng Bản vẽ hiện trạng ngày 08/8/2022.

Bị đơn kháng cáo không đồng ý một phần bản án sơ thẩm với lý do toàn bộ diện tích đất tranh chấp do bị đơn quản lý sử dụng. Căn cứ là bị đơn đã làm hàng rào cọc năm 2002, đến năm 2005 làm lại do cọc cũ bị gãy. Phần đất tranh chấp bị đơn quản lý, đất để trống do không canh tác được. Việc cấp giấy chứng nhận năm 1993 là cấp đại trà, bản thân bị đơn cũng không biết Thửa 4020 ở đâu để khiếu nại về việc cấp không đúng.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn nêu nguyên đơn được quyền sử dụng hợp pháp căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993. Bị đơn không được cấp quyền sử dụng đất, việc quản lý sử dụng thực tế không canh tác, và vẫn để trống cho đến ngày hôm nay. Đề nghị sửa án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải tháo dỡ hàng rào B40 trả lại đất theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H thì phần đất mà phía bị đơn lấn chiếm chỉ có 364,7m2 thuộc một phần thửa 4020 theo tài liệu chỉnh lý năm 1992 (tương ứng với vị trí 4020-1 và 4020-2). Đồng thời, thống nhất yêu cầu giải quyết căn cứ vào Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của những người thừa kế quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị được tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng là các khoản lệ phí đo vẽ, thẩm định giá, thẩm định tại chỗ và ủy thác tư pháp trong suốt quá trình tố tụng từ cấp sơ thẩm đã tạm ứng đến nay.

Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố H về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đảm bảo cho các đương sự có các quyền và nghĩa vụ theo quy định; gửi các Quyết định, Thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự đầy đủ, đúng thời hạn. Hội đồng xét xử đúng thành phần, phiên tòa diễn ra theo đúng trình tự và quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa; Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được làm trong thời hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đương sự đã đóng tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên được chấp nhận về hình thức.

Về nội dung:

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, đòi lại toàn bộ diện tích 364,7m2 thuộc một phần thửa 4020, Tờ bản đồ số 03 theo tài liệu chỉnh lý năm 1992 (tương ứng với vị trí 4020-1 và 4020-2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ Thành phố H) tại xã T, huyện B và tháo dỡ hàng rào trên phần đất này. Căn cứ cho yêu khởi kiện là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1132/QSDĐ/1993 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 15/7/1993. Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do phần đất đang tranh chấp do nguyên đơn quản lý sử dụng từ năm 1975, không đồng ý trả lại 27.7 m2 như Bản án sơ thẩm đã tuyên. Do đó, vấn đề Hội đồng xét xử đặt ra để xác định quyền sử dụng đất là nguyên đơn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993 hay việc bị đơn kê khai trên Phiếu công khai thông tin năm 2006 làm căn cứ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết yêu cầu kháng cáo của những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn, của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ hên quan.

[3] Xét việc đăng ký kê khai, cấp giấy chứng nhận:

[3.1] Căn cứ Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 27/6/1992, ông Phạm Tấn P gửi UBND xã T, huyện B có nội dung đề nghị Ủy ban nhân dân cấp giấy chứng nhận ruộng đất do gia đình trực tiếp sử dụng được liệt kê 10 thửa đất, với tổng diện tích đất là 15,466m2 trong đó có thửa 4020, diện tích 2,323m2 đất, loại ruộng đất Hoang đồng bằng + Thổ.

[3.2] Căn cứ Quyết định 180QĐ/ƯB ngày 13/10/1992 của Ủy ban nhân dân huyện B về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho 237 hộ cá nhân có danh sách đính kèm theo Tờ trình V/v phê duyệt để cấp giấy chứng nhận QSDĐ xã T, huyện B. Căn cứ danh sách đính kèm trong đó có nội dung : tại s thứ tự 147, tên tổ chức, cá nhân : Phạm Tn P, đăng ký trong s địa chính có thửa 4020 (trong tổng số 10 thửa). Căn cứ Thông báo của UBND xã T ngày 27/8/1992 có nội dung : Hồ sơ đăng ký và xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của xã T sẽ được công khai tại trụ sở. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nói trên ai có điều gì cần khai báo thêm thì nộp đơn tại Ủy ban đ Hội đồng đăng ký ruộng đất thm tra giải quyết. Quá thời hạn trên, mọi sự khai báo sẽ không được chấp nhận. Ruộng đất không bị khiếu nại sẽ thuộc quyền sử dụng của người được ghi tên trong s sách địa chính của hồ sơ đăng ký ruộng đất này. Ngày 01/9/1992 Ủy ban nhân dân xã T lập biên bản về việc kết thúc việc để công khai hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã T.

[3.3] Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1132/QSDĐ/1993 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 15/7/1993 cho ông Phạm Tấn P, có nội dung được quyền sử dụng theo bảng liệt kê trong đó có diện tích 2323m2 đất Tờ số bản đồ số 3 ; Số thửa 4020, mục đích sử dụng Hg/Đb + Thổ. Bản vẽ đính kèm thể hiện trọn thửa, tỷ lệ bản đồ 1/4000.

[3.4] Bị đơn nêu cũng được cấp giấy chứng nhận nhưng không đưa ra được căn cứ để chứng minh, không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với S1 thửa 4020. Mặc dù tại thời điểm năm 1992 khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đại trà bị đơn và nguyên đơn cùng được cấp giấy chứng nhận thì bị đơn không kê khai đăng ký và cũng không có khiếu nại. Tại Phiên tòa phúc thẩm bị đơn nêu tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận không biết Thửa 4020 ở đâu để khiếu nại, sau đó dùng Giấy chứng nhận thế chấp Ngân hàng nên không có điều kiện kiểm tra. Đủ căn cứ xác định bị đơn không có bất cứ tài liệu chứng minh có kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận đối với diện tích tranh chấp.

[4] Việc quản lý sử dụng :

[4.1] Cả hai bên đương sự đều cho rằng đất do mình canh tác trực tiếp quản lý sử dụng từ năm 1975 đến nay. Nhưng tại phiên tòa cả hai bên đương sự đều thừa nhận đất không thể canh tác, để trống. Tại Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 18/3/2011 thể hiện hiện trạng đất tranh chấp một phần là ao và còn lại là đất trống. Tại bản vẽ hiện trạng ngày 23/11/2011 và Bản vẽ hiện trạng ngày 08/8/2022 cũng đều thể hiện đất trống.

[4.2] Tại Biên bản hòa giải ngày 05/6/2010 của Ủy ban nhân dân xã T giữa hai bên đương sự thì bị đơn trình bày xây hàng rào từ năm 2005. Tại phiên Tòa bị đơn nêu xây hàng rào từ năm 2002 theo Thông báo của UBND xã T. Tại Biên bản thẩm định tại chỗ cũng thể hiện làm hàng rào khoảng năm 2006. Đủ cơ sở xác định bị đơn nêu quản lý sử dụng từ năm 1975 là không có căn cứ vững chắc.

[5] Xác định tính pháp lý của Phiếu công khai thông tin hiện trạng nhà đất ngày 09/6/2006.

[5.1] Căn cứ Công văn số 340 ngày 09/01/2022 về kế hoạch đo đạc lập bản đồ địa chính năm 2022 tại khu vực xã T có nội dung : Thông báo đến toàn thể nhân dân trong ấp...trên địa bàn xã biết có trách nhiệm cùng đoàn đo đạc và cán bộ ở xã xác định đúng ranh giới các thửa đất của mình, nếu ranh giới chưa rõ ràng thì yêu cầu các chủ sử dụng đóng cọc bê tông vào góc thửa đ đo khi có yêu cầu thì các chủ sử dụng đất kê khai đúng tên chủ sử dụng ký vào biên bản xác định ranh giới đất.

[5.2] Đến ngày 09/6/2006 bị đơn kê khai trên Phiếu công khai thông tin hiện trạng nhà đất có nội dung : Thửa đất được quyền sử dụng là 149 (theo tài liệu 2004 thì thửa 149 trong đó có 1 phần thửa 4020 theo tài liệu 1992), như vậy bị đơn nêu phần đất này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng. Vì trong đó có thửa 4020 bị đơn không được cấp giấy chứng nhận.

[5.3] Nguyên đơn khai trên Phiếu công khai thông tin hiện trạng nhà đất khai thửa 4020 có diện tích 2323m2 và Công ty Đ2 đo thì thửa 150 có diện tích là 1278.7m2. Những thắc mắc về hình dạng và kích thước .. theo giấy chứng nhận đã cấp thì thửa 4020 có diện tích là 2323m2 và do Công ty Đ2 đo thì thửa 150 có diện tích là 1278m2 hai số đo này chênh lệch 2323 - 1278.7 = 1,077.3m2. Đề nghị: chỉnh cho đúng diện tích đất th. Như vậy ngay tại Phiếu công khai thông tin này nguyên đơn đã đề nghị xem xét điều chỉnh lại bản vẽ ranh do còn thiếu đất của Thửa 4020.

[5.4] Do đó Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào hai Phiếu công khai thông tin nêu trên để nhận định cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và bị đơn được cấp đại trà cùng ngày 15/7/1993, diện tích cấp do đương sự tự kê khai, hồ sơ không thể hiện sơ đồ hiện trạng cụ thể. Thửa 4020 của nguyên đơn được cấp giáp ranh thửa 4023 của bị đơn là đất hoang đồng bằng. Đồng thời căn cứ vào Phiếu công khai thông tin hiện trạng nhà đất ngày 09/6/2006 của nguyên đơn khai thửa 4020 có diện tích 2323m2 và Công ty Đ2 đo thì thửa 150 có diện tích là 1278.7m2 để xác định nguyên đơn sử dụng thửa 4020 theo tài liệu chỉnh lý năm 1992 (tương ứng với thửa 150 theo tài liệu năm 2005) là loại đất thổ, không phải đất hoang đồng bằng mà nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận để không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là đánh giá chứng cứ không toàn diện khách quan.

[6] Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, căn cứ Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ Thành phố H thì phần đất mà phía bị đơn lấn chiếm chỉ có 364,7m2 thuộc một phần thửa 4020 theo tài liệu chỉnh lý năm 1992 (tương ứng với vị trí 4020-1 và 4020-2), nhưng không áp ranh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Do đó, tại cấp phúc thẩm đã yêu cầu đo vẽ lại để áp ranh đất và tại Công văn số 1716/TTĐĐBĐ ngày 04/10/2022 của trung tâm đo đạc bản đồ Sở tài nguyên môi trường Thành phố H trả lời: Đối với nội dung áp ranh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1132/QSDĐ/1993 và 1124/QSDĐ/1993 cùng do UBND huyện B cấp ngày 15/7/1993 lên bản đồ hiện trạng, Trung tâm không thực hiện do Giấy chứng nhận cấp trên nền tài liệu chỉnh lý năm 1992 có tỷ lệ nhỏ 1/4000 khi áp lên hiện trạng tỷ lệ 1/500 có sai số lớn nên không đảm bảo độ chính xác để áp ranh. Xét thấy, việc áp ranh tuy là cần thiết, nhưng do tranh chấp diện tích trên Thửa 4020 được do vẽ cụ thể, rõ ràng, nên việc bản đồ thể hiện Thửa 4020 cũng đủ để giải quyết yêu cầu của đương sự. Mặt khác, tại Bản vẽ hiện trạng ngày 08/8/2022 ngoài phần diện tích phù hợp với bản vẽ hiện trạng ngày 23/11/2011, còn thể hiện Thửa 4020 có thêm phần diện tích mà nguyên đơn chưa yêu cầu giải quyết. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm đại diện cho những người kế thừa của nguyên đơn thống nhất chỉ sử dụng Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 để yêu cầu giải quyết và giữ nguyên đối với phần diện tích yêu cầu tại tòa án cấp sơ thẩm, là vẫn trong phạm vi giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.

[7] Từ những căn cứ nêu trên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sửa án sơ thẩm. Buộc bị đơn tháo dỡ hàng rào B40, trả lại toàn bộ diện tích 364,7m2 (căn cứ vào Bản đồ vị trí theo tài liệu chỉnh lý năm 1992) tại Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H (tương ứng với vị trí 4020-1 thuộc khu A và 4020-2 thuộc khu B, Bản đồ vị trí tỷ lệ 1/4000). Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[8] Xét yêu cầu kháng cáo của Huỳnh Ngọc H4 và bà Nguyễn Thị N1 không đồng ý trả lại diện tích 27,7m2 thuộc một phần thửa 4020 tờ bản đồ số 3 (theo tài liệu chỉnh lý năm 1992) (tương ứng với vị trí thửa 150-1 tờ bản đồ số 71 theo tài liệu năm 2005) tại xã T, huyện B và tháo dỡ hàng rào lưới B40 có chiều dài 17,54m, chiều rộng là 3,34m, chiều cao là 1,7m theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H. Xét thấy diện tích này cũng nằm toàn bộ trong Thửa 4020 do đó không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đồng thời phần diện tích này là một phần diện tích nguyên đơn tranh chấp được chấp nhận nêu trên. Do đó, gộp chung phần này vào diện tích theo yêu cầu của nguyên đơn được công nhận nêu trên.

[9] Án phí dân sự, chi phí tố tụng:

[9.1] Án phí sơ thẩm : Bị đơn phải chịu toàn bộ do nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu khởi kiện, nhưng do bị đơn có đơn yêu cầu miễn toàn bộ án phí do thuộc trường hợp người cao tuổi, nên được miễn án phí.

[9.2] Án phí phúc thẩm: Mặc dù bị đơn không được chấp nhận yêu cầu kháng cáo, nhưng do thuộc trường hợp được miễn án phí và có đơn yêu cầu miễn án phí nên được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm. Nguyên đơn được chấp nhận kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Người liên quan là bà Nguyễn Thị N1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do không được chấp nhận kháng cáo.

[9.3] Các khoản lệ phí là chi phí tố tụng nguyên đơn đã tạm ứng trong quá trình giải quyết vụ án gồm ủy thác tư pháp, đo vẽ, nguyên đơn tự nguyện chịu không yêu cầu Tòa án giải quyết, sửa án sơ thẩm về phần này. Các khoản chi phí tố tụng ủy thác tư pháp bị đơn và người liên quan đã đóng, do kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015

Căn cứ Điều 48 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Căn cứ Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 47/2015/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Tấn P (đã chết ngày 06/6/2014 theo giấy chứng tử số 27 Quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã T cấp ngày 12/6/2014) có những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông P gồm bà Phạm Thị Đ, ông Phạm Tấn S, bà Phạm Thị V, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị T2, ông Phạm Tấn N, ông Phạm Tấn H, ông Phạm Tấn A và ông Phạm Tấn H1 đối với bị đơn ông Huỳnh Ngọc H4.

Buộc bị đơn ông Huỳnh Ngọc H4 và các thành viên trong hộ gia đình gồm bà Phạm Thị Đ1, bà Phạm Thị Ấ và bà Nguyễn Thị N1 trả lại cho nguyên đơn ông Phạm Tấn P (đã chết ngày 06/6/2014 theo giấy chứng tử số 27 Quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã T cấp ngày 12/6/2014) có những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông p gồm bà Phạm Thị Đ, ông Phạm Tấn S, bà Phạm Thị V, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị T2, ông Phạm Tấn N, ông Phạm Tấn H, ông Phạm Tấn A diện tích 364,7m2 (căn cứ vào Bản đồ vị trí theo tài liệu chỉnh lý năm 1992) tại Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H (tương ứng với vị trí 4020-1 thuộc khu A và 4020-2 thuộc khu B, Bản đồ vị trí tỷ lệ 1/4000) thuộc một phần thửa 4020 tờ bản đồ số 3 (theo tài liệu chỉnh lý năm 1992) (tương ứng với vị trí thửa 150-1 tờ bản đồ số 71 theo tài liệu năm 2005) tại xã T, huyện B và tháo dỡ hàng rào lưới theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 23/11/2011 của Trung tâm đo đạc bản đồ thành phố H, thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

2. Án phí dân sự và chi phí tố tụng:

2.1. Án phí sơ thẩm: Nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện không phải chịu án phí theo quy định. Được nhận lại toàn bộ số tiền 3,000,000 đồng (Ba triệu đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm theo Biên lai thu số 022821 ngày 16/6/2010 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện B.

Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm do nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu khởi kiện, nhưng do bị đơn có đơn yêu cầu miễn toàn bộ án phí do thuộc trường hợp người cao tuổi. Do đó được miễn án phí.

2.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm 200,000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số AE/2011/09734 ngày 14/8/2015 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B.

Bị đơn không phải chịu án phí phúc thẩm do có đơn xin miễn giảm theo quy định là người cao tuổi, được nhận lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 200,000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số AE/2011/09655 ngày 04/8/2015 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 200,000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), được cấn trừ số tiền đã nộp theo Biên lai thu số AE/2011/09656 ngày 04/8/2015 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B.

2.3 Các khoản lệ phí là chi phí tố tụng nguyên đơn đã tạm ứng trong quá trình giải quyết vụ án gồm ủy thác tư pháp, đo vẽ, nguyên đơn tự nguyện chịu không yêu cầu Tòa án giải quyết, sửa án sơ thẩm về phần này. Các khoản chi phí tố tụng ủy thác tư pháp bị đơn và người liên quan đã đóng, do kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu. Ghi nhận các đương sự đã thực hiện xong khoản tiền này.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 107/2023/DS-PT

Số hiệu:107/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:17/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về